Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

Thất tình vì quá yêu anh

, Một số bài viết từ Website 2.0 như forum, blog miễn là chèn được text link trỏ về video Youtube của bạn ở đây mình gia con số tối thiểu là 3 còn nhiều hơn thì càng Ok. (Không hiểu cách chèn link hoặc lấy link thì xem video).
3, Một số Post từ Google Plus (Google +) và Facebook ở đây mình chỉ cần mỗi loại 1 cái nhiều hơn thì tùy bạn (Cách lấy post google với facebook mà không biết thì lát xnxx.com xem video).
Sau đó bật phầm mềm iView lên, bản miễn phí (Pro) hoặc bản trả phí (Pre) đều được cả nhé, nhưng xin lưu ý nếu là bản miễn phí (Pro) thì sẽ hơi khổ cực và tốn công 1 chút

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt.

                              Vũ Bằng (Trích)
HG: Sắp hết tháng Giêng rồi... Thế nhưng "Thương nhớ mười hai" mà! Đã gọi là thương nhớ..., thì chẳng phải là về những ngày đã qua đấy sao?
Đọc Vũ Bằng, đành rằng cảm mến ngòi bút tài hoa của ông, nhưng thương ông một, thương người vợ ông một trăm...

    Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.

   Ới ời người em gái xoã tóc bên cửa sổ! Em yêu mùa xuân có phải vì nghe thấy rạo rực nhựa sống trong cành mai, gốc đào, chồi mận ở ngoài vườn? Chàng trai kia yêu mùa xuân, phải chăng là tại lúc đôi mùa giao tiễn nhau, chàng tưởng như nghe thấy đồi núi chuyển mình, sông hồ rung động trong cuộc đổi thay thường xuyên của cuộc đời? Mà thiếu phụ ở chân trời góc biển yêu mùa xuân có phải vì đấy là mùa xanh lên hy vọng được trở về nơi bến đợi sông chờ để ngâm lại khúc bạc đầu với người ra đi chưa biết ngày nào trở lại?
    Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng, ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
    Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xăm, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng ...
     Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu, mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng nghe như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống!
     Anh có thể đạp cỏ trên Hồ Gươm, đợi đến sâm sẩm tối ra ngồi ở Thuỷ Tạ nhìn các cô gái đẹp như tiên mặc áo nhung, áo len trăm mầu ngàn sắc, in bóng hình xuống đáy nước lung linh; anh có thể vào một nhà hát thưởng vài khẩu trống, "mở quả mứt" phong bao cho các chị em, rồi uống với mỗi em một ly rượu "lấy may"; anh có thể đi vào một ngôi chùa khói nhang nghi ngút, đưa mắt nhìn xem có cô nào thực xinh thì quỳ ngang xuống bênh cạnh cầu Trời khấn Phật cho cô càng ngày càng đẹp và trong năm lấy được một người chồng xứng ý như ... anh vậy.
     Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu cũng căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái là nhỏ tí ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
     Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa, mà cái rét ngọt ngào chứ không còn tê buốt căm căm nữa.
     Y như những con vật nằm thu mình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
     Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ Tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan.
     Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại lại nức một mùi hương man mát.
     Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve sầu mới lột.
(...)
     Người khách xa nhà nằm ngửa mặt lên trần, mơ lại những ngày xuân đã mất và cảm như tất cả những cái vui đẹp, say sưa đó thuộc vào một tiền kiếp xa xôi.
     Không. Y không phải là một người hèn nhát, nhưng mang trong mình một lúc tới bảy tám biệt ly, quả là có lúc y buồn quá cũng muốn chết đi cho rảnh. Không có lý nào y lại khóc với lòng! Y cố nhắm mắt để ngủ thì đến gần sáng bỗng mơ mơ màng màng thấy ở cửa đi xuống vườn, nơi rặng chuối, có bóng một người đàn bà đẹp, mặc áo xanh, bước qua cửa sổ vào viện sách.
     Đêm tháng giêng ở Sài Gòn nóng quá, có khi gần sáng mà người nằm ngủ hãy còn lã chã mồ hôi. Bóng người đàn bà đẹp cúi xuống lau trán cho người mê ngủ. Và bỗng nghe thấy như xa, như gần ở bên tai:
     "Thường tình, ai cũng ưa hiện tại bởi vì hiện tại chờ đợi những đổi thay, hứa hẹn những tương lai hứa hẹn, thế mà làm sao anh cứ băn khoăn mãi với quá khứ làm gi? Hay là tại sầu nhiều chăng, giận nhiều chăng?"
     Người sầu xứ, trong cơn mơ thiêm thiếp, phảng phất thấy hình bóng của người đàn bà mặc áo xanh đó quen quen, mà nghĩ mãi vẫn không biết là ai. Đó là một người quen biết thực, trong đời sống thực? Hay là hình ảnh của một mùa xuân đã chết, của một cái đẹp đã mờ xa, một mối tình chung thuỷ nhưng não nùng, ai với ai cùng xây một mộng ước mơ nhưng bị trời bắt phải lìa nhau lúc sống?
     Người đàn bà mặc áo xanh lại nói:
     "Vui và buồn ở đời là tuần hoàn cả. Tất cả bí quyết của sự sống là biết tin tưởng và đợi chờ, vì tin tưởng và chờ đợi thì cái gì mà chẳng đến? Anh đọc sách có còn nhớ chuyện Pygmalion không?"
     "Đó là một nhà điêu khắc có tài ở trên một hòn đảo xanh biêng biếc giữa đại dương thần thoại.
     "Pygmalion đem hết tâm hồn tạc nên một pho tượng đẹp, tượng nữ thần Galatée, đẹp quá, đẹp vô cùng là đẹp, đến nỗi chính mình lại say mê tác phẩm của mình.
     "Nhưng người đẹp chỉ là một vật vô tri, hiểu đâu được tình cảm não nùng của nhà nghệ sĩ? Pygmalion than khóc ngày đêm và, ngày đêm, khấn nguyện được có một người vợ đẹp tuyệt trần như pho tượng. Thì một sớm kia tiếng khẩn cầu thần đến tai thần Vệ nữ. Và bà thần này - vốn giống đa tính, thương người đồng điệu - đã hoá phép cho pho tượng Galatée thành ra người thực để cho "chàng" và "nàng" chung sống với nhau".
     Người đàn bà đẹp mặc áo xanh nói tới đó thì vòng tay ta khép lại, làm cho trăng non ở ngoài cửa sổ cũng phải thẹn thùng.
     Đôi mắt đẹp lung linh sầu. Ta thấy như cả một mảnh vườn thơm ngát hương cau nghiêng xuống mé giường xô lệch.
     Em yêu ơi, sống là tin tưởng và chờ đợi, nhưng biết rằng mái tóc người ta có còn xanh mãi được chăng? 
                                       1960.
                                       
  ---------------------------------------------

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

Tiếng mưa đêm

HG: Tự dưng lại sinh ra thích nghe bản "nhạc vàng" này đây. Lại còn vừa đi đường vừa hát ư ư... Cứ thế vo ve trong áo mưa... 
 Mình đang là ai, là ai thế?
"Em là ai, là ai? ... mà yêu quá đời này." (*)


Tiếng mưa đêm  
                            Đức Huy
Còn rơi mãi trên phím đàn
Còn rơi mãi những tiếng buồn thở than
Đã lâu rồi, nụ cười vắng trên môi...

Mưa rơi mưa rơi
Còn rơi mãi nhớ thương ai
Ướt bờ mi em dài...
Mưa rơi mưa rơi
Còn làm mưa mãi trong đời
Người đã xa vắng rồi...

Con tim cô đơn
Còn ôm ấp những hẹn thề
Ướt chiều mi em về...
Chôn đi bao nhiêu
Kỷ niệm xưa mãi tôn thờ
Cuộc tình còn ước mơ.

DK:
Từng giọt mưa từng giọt buồn
Ngoài sân vắng buổi chiều tối dần
Từng giọt mưa như hờn giận
Nào người có biết chăng...

Từng giọt mưa, từng giọt buồn
Như dĩ vãng cuộc tình mình
Còn rơi mãi không bờ bến
Trong tiếng mưa đêm.

------------------------------------------------------
(*) Ns Trịnh Công Sơn

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Chữ NHẪN


NHẪN  (*)
                                                                                              
Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để tìm đường tiến thân
Có khi nhẫn để chuyển vần
Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta bớt thù
Có khi nhẫn tỉnh giải ngu
Hơn hơn thiệt thiệt đường tu ai tường
Có khi nhẫn để vô thường
Không không sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để lắng tai
Khôn khôn dại dại nào ai tránh vòng
Có khi nhẫn để khoan dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan
Có khi nhẫn để an toàn
Có khi nhẫn để rõ ràng đúng sai
Bạn bè giao thiệp nào ai
Có khi nhẫn để kính người trọng ta...

Kể ra cũng khó đó mà
Chữ TÂM, chữ NHẪN, xem ra cũng gần.
  
Luận về chữ NHẪN (nhịn)
Chữ Nhẫn- tranh Đông Hồ
     Từ những kinh nghiệm xương máu của thực tế cuộc sống mà người Hán đã sáng tạo ra cách viết chữ nhẫn: chữ đao (con dao) ở trên và chữ tâm (con tim) ở dưới. Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…
     Trong kinh điển, người biết nhẫn nhục, chính là người mạnh nhất. Còn theo thánh Gandhi: Nhẫn nhục ví như không khí, chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ bạo tàn!
     Vì thế mà người xưa đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về nó, đã răn dạy rất nhiều những lợi ích và tác hại xung quanh chữ nhẫn này , ngày nay thì sao?


     Nhẫn, không phải là sự cam chịu.
     Đúng vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà chữ nhẫn lại có bộ đao phía trên như biểu hiện của những nỗi thống khổ sâu sắc như dao nhọn, chúng có thể khía vào trong tâm trí, trong con tim ta, làm cho ta đau đớn, tủi nhục và khó chịu.
     Nhưng, nhẫn, đừng nên hiểu một cách tiêu cực, là phải gồng mình cam chịu ôm nhục, là luồn cúi để đạt được mục đích. Nếu có chuyện không hay, hãy dùng trí tuệ để thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua với người ta và không cố chấp phiền hận.
     Người “chửi” mình, nếu đúng thì nhận, nếu không phải thì xả bỏ. Chứ nếu nhớ hoài suốt đời, thì tự mình chuốc lấy cái khổ cho mình và còn làm cho người khác khổ lây.
     Tóm lại, chữ nhẫn ngoài sự chịu đựng điềm tĩnh còn cần phải có sự tha thứ, phải có từ - bi - hỷ - xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà kiên tâm nhẫn nại... Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.
     Khổng Tử xưa đã nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng).
     Nhiều gia đình thường treo chữ nhẫn trong nhà, như tự răn mình để giữ được hòa khí trong gia đình. Ôi chao, nhịn đi có một sự, đổi lại được những chín điều lành cơ mà.
     Vậy nên, anh em có tranh nhau tí đất đai, vợ chồng có nổi cơn tam bành, ta có “hận” sếp, có xích mích gì với hàng xóm, có bị ai “đì” đi nữa, thôi thì nhẫn đi.
     Con tim nhức nhối lắm, khi thấy mình phải chịu đựng thua thiệt, phải kém chị kém em, thành ra hậm hực, tức tối nổ con ngươi con mắt chỉ vì những thứ nhỏ nhặt.
     Người ta có cái ví đầm hàng hiệu xịn hơn, thế là phải đua đòi chẳng kém cạnh gì, kẻo mang tiếng “quê”! Hoặc người ta xe nọ xe kia, nếu mình không có, thì đau buồn mà bi luỵ trách móc số sao mãi chả giàu để được làm... đại gia.
     Mẹ chồng hủ lậu, lắm lời... cẩn thận đấy! Ra đường, nhẫn á, nhịn á, ganh nhau đến từng chỗ đỗ xe trước đèn xanh đèn đỏ, còi bấm cứ là nhức cả óc. Tông xe vào nhau, là gầm gừ như chuẩn bị xuống cắn xé nhau ngay!
     Đến cái chuyện quyền lợi hay tiền nong, ai mà động chạm, thì cứ liệu hồn. Tốt nhất là nên việc ai người đấy làm, tiền ai người ấy hưởng, chứ ức chế quá, là xử lý nhau ngay.
     Nhẹ thì bằng bom thư, cao hơn nữa, sẽ được chọn làm đối tượng để buôn dưa lê, nặng thì đơn kiện nặc danh, tệ hơn là thuê xã hội đen dằn mặt...
     Thuở phong kiến, chồng có là nông dân thì vợ cũng phải hầu như hầu ông chủ; thời này, chồng mà lười biếng, lại mắc tính loăng quăng bồ bịch, cờ bạc thì dè chừng! Vợ mà đỏng đảnh, hay “không biết đẻ”, hay nọ kia, lơ mơ là ông quăng quần áo ra ngoài đường.
     Cho nên, kết hôn cũng nhanh, mà chia tay, ly dị cũng quá lẹ. Chẳng có vấn đề gì phải kéo dài những mấy chục năm. Thời này, chữ nhẫn là chữ gì mà đòi hỏi phải mất thời gian đến vậy?


     Nhẫn, cũng không phải là nhục một cách hèn nhát.
   Thời xưa, vua Câu Tiễn nằm gai nếm mật, nuốt mọi tủi nhục chỉ để chờ thời cơ làm nên chuyện lớn. Như vậy, cái chữ nhẫn nhục trở thành động cơ sống, thành quái chiêu của một số người nhằm đạt đến mục tiêu cần thiết của họ.
   Ngược lại, chữ nhẫn như trái tim bồ tát của Quan Âm Thị Kính khi bị “vu oan” mọi bề, lay động thân tâm của con người, đó là:
     “Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa/ Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu...
     Nhẫn ngày nay, nhiều khi đã thành nhẫn nhục một cách hèn nhát. Nhẫn quá, thành ra... nhục. Nó là điều sỉ nhục, làm xấu hổ, tổn thương đến lòng tự ái của mình.
     Nhục, bởi vì sợ quyền thế, nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được, nhục để mong cầu có người khen, hay được chức trọng, quyền cao, nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản đối.

     “Tránh voi chẳng xấu mặt nào..., nhiều khi thấy cái sự bất bình ra đấy, nhưng chẳng liên quan đến ta, thì ta “mackeno”. Cái sự nhịn ấy, xem phần nó cũng mang tính AQ, rằng thôi, nhịn đi một tí, chết ai!

     Hiểu sai chữ nhẫn nhất là khi ghép chữ nhẫn với chữ tâm, để trở thành nhẫn tâm, ác độc. Cũng như hiểu chữ nhẫn với thói quen chịu đựng đến mức hèn yếu, bạc nhược hết ngày này, qua tháng khác, và cơ đồ sự nghiệp, thành quả chẳng thấy đâu, chỉ thấy con người ngày càng èo uột đi, thảm hại, nhưng họ vẫn tự ru mình là ta đang... nhẫn một cách chính đáng.
     Nhẫn nhục một cách hèn nhát, là mềm yếu, cam chịu vô ích, rồi tự mình chìm trong cái cõi mịt mờ của mình, sẽ thành kẻ chui sâu vào vỏ ốc, và điều này sẽ làm suy thoái xã hội, đạo đức con người, làm cho cái ác, cái tham, cái xấu có mầm mống và nguy cơ phát triển.
     Nhẫn nhục như thế, theo thuyết nhà Phật, là nhẫn nhục chấp tướng vì vẫn còn do dục vọng và lòng tham thúc đẩy chứ không phải nhẫn bà la mật.


     Nhưng nếu không biết nhẫn, bạn sẽ có một khuôn mặt... xấu xí.
     Nếu bạn không biết giữ được cho mình một chữ nhẫn, lúc nào đầu óc bạn cũng căng ra, như một chảo lửa, bạn có thể phản ứng ngay tức khắc các vấn đề vừa xảy ra một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ...
     Gặp chuyện khó chịu, không may, tức khắc lửa giận nổi lên, nếu nhẹ thì chỉ bộc lộ ra sắc mặt, hành động nóng nảy, nhưng nặng và đáng sợ hơn nữa, đó là để chất chứa trong lòng.
     Bạn biết không, những cơn nóng giận ấy khiến cho khuôn mặt con người bỗng chẳng dễ coi chút nào và trở nên rất xấu. Đôi khi, chẳng những chúng ta không giải quyết được việc gì, mà còn tự tạo thêm những hành động nông nổi, gây thêm bực bội đúng như các cụ đã nói: “Tâm oán giận, mạnh hơn lửa dữ”.
     Thật vậy, chỉ một phút nổi nóng, không tự kìm chế được mình mà không dằn được cơn tức giận, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn bè trở thành kẻ oán thù, và mâu thuẫn dẫn đến xung đột (đánh đập vợ con đến tàn tật, vợ giết chồng, con giết cha, đốt phá nhà cửa, tự hủy hoại thân thể mình...)
     Tôi còn nhớ câu chuyện của một chị, nói rằng, thời mà anh chị chưa ly hôn, chị đi “đánh” ghen anh. Đêm hôm, không thấy anh về, trong một đêm mùa đông giá rét, chị quyết định lôi con nhỏ mới hai tuổi, đặt lên đằng sau xe đạp, đèo con đến nhà nhân tình của chồng, và căm phẫn đập cửa ầm ầm...
     Sau này, chị tự nhận ra rằng, chẳng phải vì thương con không có cha, chẳng phải lý do gì, ngoài lòng ích kỷ và hận thù nên chị quyết không ly dị. Cũng chỉ vì chị không nhẫn được, cơn nóng bốc lên đầu và chỉ còn nỗi căm hận.
     Cho dù đã bao lần, chị tự dặn mình rằng, đừng để con cái nghe thấy tiếng của hai vợ chồng cãi nhau. Nhưng biết sao được, khi cơn sân hận dâng lên, tiếng chì chiết, cãi vã, lẫn xỏ xiên, thậm chí thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ngay trước mắt con cái, vô tình anh chị không biết rằng họ chính là một bằng chứng xấu xí của hôn nhân.
     Và nếu trước kia, chị nhất quyết không ký đơn ly dị để “hành hạ”, trả hận với chồng mình, thì sau khi đã hiểu ra: nhẫn không phải là chịu đựng, mà nhẫn còn là xả bỏ những nỗi nhọc nhằn uất hận, những đau buồn tủi nhục, để cuộc sống dễ chịu hơn, chị đã ký đơn ly dị, nhằm giải thoát cho cả gia đình thoát khỏi cảnh “địa ngục trần gian”.


     Chữ nhẫn, giống như vàng.
    Bạn hãy đọc kỹ những câu răn về chữ nhẫn, bạn sẽ thấy, muôn màu cuộc sống bày ra trong sức mạnh của chữ nhẫn. Chữ nhẫn ẩn chứa những phương kế sống của một đời người.
... Có khi nhẫn để xoay vần/ Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa/ Có khi nhẫn để vị tha/ Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù/ Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu/ Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường/ Có khi nhẫn để vô thường/Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai/ Có khi nhẫn để lắng tai/ Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng/ Có khi nhẫn để bao dung/ Ta vui người cũng vui cùng có khi/ Có khi nhẫn để tăng uy/ Có khi nhẫn để kiên trì bền gan...
     Việc lấy đức nhẫn làm sức mạnh (dĩ nhẫn vi lực) cho thấy lợi ích cũng như quyền năng biến hóa, nội lực mạnh mẽ của chữ nhẫn.
     Trong cuốn “Luận về chữ nhẫn” của Mạnh Chiêu Quân có viết: “Bạn chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hòa khí; Bạn chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm hủy hoại nguyên khí; Bạn chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí; Bạn phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ được thần khí”...
     Cũng như câu tục ngữ của Việt Nam ta:
Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được, thì càng sống lâu”.

      Tự tìm được cho mình một chữ nhẫn thích hợp sẽ giúp ích cho cuộc sống của bạn, và nếu biết sử dụng chữ nhẫn sao cho đúng cách, sẽ mang lại cho con người một sức mạnh vô cùng!

                                                                  (Sưu tầm)
---------------------------------------------------------

(*) Bài thơ này từng được cho rằng tác giả là cụ Võ Nguyên Giáp; Song có tài liệu khẳng định không phải- đó không thể là khẩu khí của cụ Võ. Đọc thêm ở đây., và ở đây nữa.

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Chính sử nhà Nguyễn viết gì về “đối thủ” Quang Trung?

Sau khi lên cầm quyền, triều đình nhà Nguyễn đã rất tích cực trong việc thủ tiêu các di tích và sách sử về nhà Tây Sơn – kẻ thù không đội trời chung của họ. Chỉ đến thời vua Tự Đức, Đại Nam liệt truyện – một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn mới có những ghi chép về các vị vua Tây Sơn trong một thiên có nhan đề “Ngụy Tây liệt truyện” (có nghĩa là Truyện về sự tiêu vong của ngụy quyền Tây Sơn).
Bộ Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (sơ tập),
Trang 43 trong Quyển XXX: “Ngụy Tây”
Vừa là “ngụy” vừa là anh hùng.
Điều đáng chú ý là dù bị coi là “ngụy”, nhưng hình ảnh của hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên trong Ngụy Tây liệt truyện như một con người phi thường, với khí phách và tài năng của một vị anh hùng lịch sử. 
Theo mô tả của Ngụy Tây liệt truyện, ngay từ ngoại hình, Nguyễn Huệ đã một con người phi phàm với “tiếng nói như tiếng chuông to, mắt lập lòe như tia lửa”. Ông là người “đánh giặc rất giỏi, người người đều sợ”. 
Bằng những lời lẽ không giấu giếm sự nể phục, tác phẩm cho biết: “Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh phá Gia Định, lâm trận đi đầu các binh sĩ, hiệu lệnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục”.

 Tài cầm quân của Nguyễn Huệ được miêu tả khá kỹ trong trận đánh Vị hoàng ở vùng Thanh Nghệ trên đường ra Bắc dẹp quân Trịnh: 
Khi Nguyễn Huệ đã tiến tới Vị Hoàng, kinh thành Thăng Long chấn động. Trịnh Khải sai Trịnh Tự Quyền đem bộ binh xuống Sơn Nam, sai Đinh Tích Nhưỡng đem chiến thuyền chặn ngang sông Lỗ Giang lập thế trận hình chữ nhất. Lúc đấy nước lụt vừa yên, đang đêm Nguyễn Huệ cho năm chiếc thuyền chiến Mông xung (thuyền cơ động dùng để đột kích) trước hết tiến bức Lỗ Giang mà đánh. 
Binh của Đinh Tích Nhưỡng tranh nhau bắn, nhưng chiến thuyền của địch lặng lờ không động đậy gì. Đến sáng binh của Đinh Tích Nhưỡng mới biết đó là thuyền không, thì thuốc đạn đã hết. Chiến thuyền của Nguyễn Huệ ụp tới thuận theo gió, súng nổ rền trời, đạn bay đoạn ngang cây cổ thụ…”. 
Đến cuộc chiến chống sự xâm lược của quân Thanh, khí phách và tài năng của Nguyễn Huệ càng được tỏ rõ.
Khi Tôn Sĩ Nghị đưa quân vào Thăng Long, tuyên phong Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc Vương (1788) và bày tỏ sự coi thường quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã vô cùng phẫn nộ. Ngụy Tây liệt truyện viết:
Ngô Văn Sở bỏ các trấn ở Bắc thành. Vua Chiêu Thống sai quan đến nhậm chức các nơi. Các quan văn võ lục tục kéo đến đô thành Thăng Long bái Yết. Họ đều xin Sĩ Nghị ra quân. Sĩ Nghị bảo: Năm sắp hết, việc gì mà vội? Không cần đánh gấp. Quân giặc ốm. Chúng ta chính đang nuôi chúng mập béo để chúng tự đến nạp thịt vậy.
Sĩ Nghị truyền lệnh cho các đội quân hạ trại nghỉ ngơi, hẹn ra xuân mùng 6 tháng Giêng ra quân. 
Nguyễn Huệ được cấp báo mắng to: Chó Ngô là quân gì mà dám tung hoành?”.
Ngay sau đó Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Trung và tiến hành cuộc hành quân huyền thoại ra đất Bắc.
Vị anh hùng của Tây Sơn đã chứng tỏ mình là một người có trí tuệ sáng suốt khi hành xử thấu tình đạt lý với hai bại tướng không chặn được quân Thanh. Theo Ngụy Tây liệt truyện thì:
Ngày 20 tháng Chạp vua Quang Trung đến núi Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân phủ phục bên đường xin nhận tội. Vua Quang Trung nói: Tội của các ngươi đáng muôn lần chết. Nhưng ta lại nhớ Bắc Hà mới dẹp yên, lòng người chưa phụ vào. Bọn ngươi bảo toàn được quân đội để tránh mũi dùi nhọn của giặc, trong thì kích thích chí khí của quân sĩ, ngoài thì làm kiêu căng lòng giặc. Đó cũng là cái kế dụ địch. Ta cho bọn ngươi lập công chuộc tội để xem chiến tích của bọn ngươi sau này”.
Tài năng quân sự của hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ không chỉ thể hiện ở việc đánh trận mà còn ở nghệ thuật truyền dũng khí cho quân sĩ, được kể lại như sau:
Vua Quang Trung đãi quân sĩ ăn uống no say rồi nói với toàn quân: Nay chúng ta hãy ăn Tết trước, đợi sang xuân mùng 7 vào thành Thăng Long rồi ta mở yến tiệc một lần nữa. Bọn ngươi hãy nhớ xem ta nói có ngoa hay không”.
Dưới sự dẫn dắt của hoàng đế Quang Trung, đội quân Tây Sơn nhanh chóng nhổ bật các chướng ngại để bước vào trận đánh sinh tử ở đại bản doanh của kẻ thù. 
Trận Ngọc Hồi được Ngụy Tây liệt truyện mô tả:
Hừng sáng ngày mùng 5 quân Nam tiến đánh lũy Ngọc Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như mưa. Vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ lấy ván gỗ núp mà xung trận. Vua Quang Trung tự đánh voi đốc quân ở phía sau.
Quân Nam đã phá được cửa lũy, liền bỏ ván gỗ xuống đất, dùng đoản đao đánh giết. Quân Thanh chống không nổi, tan rã bỏ chạy tứ phía mắc vào bẫy ngầm, địa lôi phát nổ, tử thương rất nhiều. Vua Quang Trung giục trống thúc quân truy đuổi, phá luôn mấy đồn Văn Điển, An Quyết… 
Ngày ấy vua Quang Trung xua quân vào thành. Chiếu bào của vua biến thành màu sạm đen vì thuốc súng”.
Đọc những đoạn trên, khó có thể hình dung Ngụy Tây liệt truyện đang nói về một kẻ tử thù của triều Nguyễn. Người ta chỉ thấy hình ảnh vua Quang Trung hiện lên như một đấng anh hùng kiệt xuất.
Ngụy Tây liệt truyện cũng ghi nhận sự khiếp sợ của người phương Bắc trước uy thế của vua Quang Trung:
Vua Quang Trung cho quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, và lên tiếng sẽ giết sạch không sót mạng nào để tìm tung tích vua Chiêu Thống. Người nhà Thanh kinh khủng, từ cửa ải trở về Bắc, già trẻ dìu nhau trốn chạy. Hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên người và khói bếp lạnh tanh”.
Chiến lược ngoại giao xuất sắc

Với tầm nhìn của mình, hoàng đế Quang Trung hiểu rằng để có thể tránh họa binh đao, dân chúng được hưởng thái bình lâu dài thì phải thiết lập quan hệ ngoại giao hòa hảo với chính kẻ thù của mình.
Ngụy Tây liệt truyện viết: “Khi Tôn Sĩ Nghị dìu dắt nhau chạy về Bắc, các sắc thư của hắn mang theo rơi rớt dọc đường. Vua Quang Trung thu được, nói với Ngô Thì Nhậm: Ta xem thư của vua Thanh, chẳng qua là họ xem thế mạnh yếu mà giúp vậy thôi. Việc giúp nhà Lê không phải ở bản tâm chân thật, mà chỉ mượn đó làm danh nghĩa để mưu lợi. Nay sau khi thua trận, họ tất cho là nhục, hẳn là không chịu dứt can qua. Nhưng hai nước giao binh cũng không phải là cái phúc cho nhân dân. Nay chỉ khéo ở lời thù tiếp ngoại giao mới có thể dứt được đao binh”.
Vì vậy, ngay sau khi đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, vua Quang Trung đã “làm mềm lòng” vua Thanh bằng cách ra lệnh cho người quân binh nhà Thanh bị bắt làm tù binh đều được cấp lương phạn và được chọn nơi cho tạm trú.
Sứ giả nhà Thanh đã đưa thư sang gợi ý vua Quang Trung hãy “nhận ân huệ” của nhà Thanh, nhưng thực bụng là tỏ ý muốn giảng hòa. Vua Quang Trung nhận được thư, trong lòng khinh bỉ, nhưng ngoài mặt vẫn sai người dâng biểu cho nhà Thanh xin làm An Nam Quốc vương.
Tờ biểu được viết bằng những lời lẽ rất khiêm nhường, trần tình về cuộc chiến vừa xảy ra và xin lỗi vua Thanh vì đã lỡ tay… diệt sạch quân thiên triều. Nhưng ẩn sau các lời lẽ đó là những hàm ý hết sức cứng rắn, khiến sứ giả nhà Thanh thất kinh khi tiếp nhận.
Theo Ngụy Tây liệt truyện, tờ biểu có các đoạn sau:
Ôi, đường đường là thiên tử lại đi so hơn thua với nước bé thì ắt là muốn chinh chiến mãi không thôi để cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham tàn bạo thì thật lòng Đại hoàng đế không nhẫn.
“”
Vạn nhất can qua mãi không dứt, tình thế đến nỗi nào thật không phải do thần muốn và không dám biết đến."
Đoạn trên chẳng khác nào câu lời chửi xéo vào cái sự tham tàn của vua Thanh, trong khi đoạn dưới là một thông điệp đầy thách thức, tỏ ý sẵn sàng đánh đến cùng với nhà Thanh, bất chấp kết cục ra sao thì ra.
Dù vậy, với việc hoàng đế Quang Trung chấp nhận giảng hòa và xin phong vương, vua Thanh đã vui mừng chuẩn y. Để khẳng định uy thế thiên triều, vua Thanh yêu cầu Quốc vương An Nam đích thân sang chiêm cận ở cửa ải.
Vua Quang Trung đã từ chối khéo đề nghị này. Theo Ngụy Tây liệt truyện, thư hồi đáp vủa vua Quang Trung viết: “Vốn đích thân đến cửa khuyết của triều đình để tỏ tình xin tội, nhưng vì trong nước vừa bị chiến tranh, lòng người chưa yên, thần kính cẩn sai đứa cháu ruột là Nguyễn Quang Biểu theo tờ biểu vào chiêm cận”.
Vua Thanh chuẩn y cho Nguyễn Quang Biểu lên kinh đô, nhưng vẫn nhất quyết yêu cầu vua Quang Trung sang chiêm cận để bày tỏ thành tâm.
Nguỵ Tây liệt truyện viết: “Vua Quang Trung lại dâng biểu tạ ơn, xin sang năm vào chiêm cận. Vua Thanh tin thật, liền sắc phong vua Quang Trung làm An Nam quốc vương, sai Thanh Lâm, quan hậu bổ Quảng Tây làm lễ thụ phong”.
Sau nhiền lần trì hoãn theo dụng ý của vua Quang Trung, buỗi lễ đã được tiến hành. Nhưng người xuất hiện trong buổi lễ không phải vua Quang Trung mà là người đóng thế Phạm Công Trị.
Ngụy Tây liệt truyện đã mô tả khá chi tiết chuyến “công du” thành công rực rỡ của “vua giả” Phạm Công Thiện trên đất nhà Thanh. Dưới đây là trích đoạn trong Ngụy Tây liệt truyện:
Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), Phúc An Khang (Tổng đốc Lưỡng Quảng) giục Quang Trung sửa soạn sang chầu.
Vua Quang Trung lại mượn cớ có tang mẹ xin cho con là Quang Thùy thay mình vào chiêm cận. Phúc An Khang không chịu, bí mật sai người đến cửa quan đem theo nỗi niềm ẩn khuất bày vẽ nếu bất đắc dĩ không đi được thì nên tìm người giống mình mà thay thế.
Vua Quang Trung bèn cho Phạm Công Trị giả mạo lấy tên mình và sai bề tôi là Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Dỗ Văn Công với ngoại lệ hai thớt voi đực để làm khổ bọn quan Tàu dọc đường dịch trạm.
Lưỡng Quảng tổng đốc Phúc An Khang và Quảng Tây Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh đưa phái đoàn đến kinh đô. Vua Thanh bao thưởng rất trọng hậu để biểu thị ý đặc biệt…
Vua Thanh cho giả vương y phục chén bát cũng đồng bậc như thân vương. Vua Thanh lại thưởng thêm vạn bạc lượng.
Khi giả vương đến cáo từ để trở về nước, vua Thanh lại cho giả vương đến bên sạp ngự và vỗ vai giả vương an ủi dạy bảo ôn tồn rồi sai họa công vẽ chân dung mà ban thưởng (nay còn bức ảnh truyền lại).
Tập tin:QuangTrung Qua Net Ve Cua Hoa Si Trung Quoc.JPG
Vua Quang Trung qua nét vẽ của họa sĩ nhà Thanh năm 1790.
Khi giả vương đã trở về rồi, vua Thanh sai đưa sang ban cho chữ Phúc và đồ trân ngoạn của ngự dụng. Sứ giả qua lại không ngớt”.
Như vậy, bằng tài ngoại giao của mình, vua Quang Trung đã biến một kẻ thù hùng mạnh thành bằng hữu mà không hề hạ thấp vị thế của mình, cũng như của cả triều đại và dân tộc. Đây thực sự là một chiến công lớn mà không cần dùng đến gươm giáo của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ.
 Vua Quang Trung nhòm ngó đất nhà Thanh
Theo Ngụy Tây liệt truyện, sau khi đánh đuổi quân Thanh khỏi bờ cõi rồi thiết lập lại quan hệ ngoại giao hòa hảo với vua Càn Long, hoàng đế Quang Trung đã nhiều lần có động thái thách thức và đưa ra yêu sách về chủ quyền với triều đình Mãn Thanh.
Sau khi tiêu diệt các đội quân phản loạn trong nước, vua Quang Trung đã dùng các chiến công này để phô trương sức mạnh với nhà Thanh. Ngụy Tây liệt truyện viết:
Tháng 6 quân Tây Sơn khắc phục Trấn Ninh, bắt được người cầm đầu Chiêu Kiểu, Chiêu Nam, tháng 8 diệt được Trịnh Cao, Quy Hợp, tháng 10 Quốc trưởng Vạn Tượng phải bỏ thành chạy. Quân Tây Sơn bắt được voi ngựa chiêng trống và đuổi ra xa đến biên giới Xiêm La, chém được viên súy Tả Phan Dung và Hữu Phan Siêu rồi đem quên về Bảo Lạc. Lê Duy Chi (em Lê Chiêu Thống) và Phúc Tấn Văn Đồng không thể địch nổi đều bị giết.
Vua Quang Trung sai Vũ Vĩnh Thành, Trần Ngọc Thị sang triều nhà Thanh dâng tin chiến thắng, tiếng là cung thuận nhưng thật ra là khoa trương võ công
”.
Việc đất đai nước Việt bị nhà Thanh xâm lấn vào các đời vua trước khiến vua Quang Trung luôn trăn trở và âm thầm nuôi chí phục thù, chuẩn bị giành lại lãnh thổ bằng sức mạnh quân sự. Ngụy Tây liệt truyện có đoạn:
Thuở trước 6 châu ở Hưng Hóa và ba động ở Tuyên Quang vào cuối thời Lê đều bị các thổ ty nhà Thanh xâm chiếm, đã được nhiều lần giãi bày mà vẫn không được thu hồi.
Vua Quang Trung gửi thư cho tổng đốc Lưỡng Quảng xin phân rõ biên giới cũ. Tổng đốc Lưỡng Quảng cho rằng biên giới đã định xong mà trả thư lại.
Do đó vua Quang Trung có ý bất bình, khuyến khích quân sĩ làm thuyền tàu, âm thầm nuôi chí nhòm ngó đất Quảng Đông, Quảng Tây. Vua Quang Trung thường nói với các tướng: Được thêm vài năm bồi dưỡng uy lực nhuệ khí ta nào sợ chúng
”.
Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển quân đội, sự cao tay trong chiến lược quốc phòng của vua Quang Trung còn thể hiện ở việc sử dụng các lực lượng đối kháng trong lòng Để chế Mãn Thanh để làm suy yếu an ninh biên ải của đối thủ phương Bắc.
Theo Ngụy Tây liệt truyện: “Lúc ấy giặc Tàu Ô ở Lưỡng Quảng bị nhà Thanh đánh đuổi, thế bức phải quy phục triều đình Việt Nam. Vua Quang Trung thu dụng tên đầu đảng, ban cho hắn chức tổng binh. Vua Quang Trung lại thâu nạp đảng cướp Thiên Địa hội, cho hắn thừa thế ẩn hiện cướp phá Trung Quốc. Đường biển vì thế mà không thông, nhưng quan nhà Thanh sợ vua Quang Trung hùng cường mà không hỏi đến”.
Những hoài bão của vị hoàng đế vĩ đại trong lịch sử Việt Nam không chỉ dừng lại ở các mảnh đất bị mất vào tay nhà Thanh. Vua Quang Trung còn muốn mở rộng cương giới của người Việt bằng cách giành lại toàn bộ hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây – vốn thuộc nước Nam Việt thời Triệu Ðà, bị nhà Hán thôn tính.
Hoàng đế Quang Trung nhà Tây Sơn (1753 - 1792)
Việc vua Quang Trung cầu hôn một công chúa của vua Càn Long chính là động thái mở màn kế hoạch đầy tham vọng của ông. Ngụy Tây liệt truyện viết: “Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung sai làm tờ biểu cầu hôn để thăm dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây hấn. Nhưng vua Quang Trung lại bị bệnh mà việc ấy phải thôi”.

Theo một số nguồn sử liệu, vua Càn Long đã chấp thuận lời cầu hôn và đồng ý trao Quảng Tây cho hoàng đế Quang Trung làm đất đóng đô, coi như của hồi môn cho con gái. Nhưng vua Quang Trung bỗng đột ngột băng hà, khiến kế hoạch đổ vỡ…
                                                                                                                               Theo Kiến Thức.


----------------------------------------------------------------------------

Đọc thêm nhiều tư liệu quý ở đây về triều đại Tây Sơn:
1. Cái Tết oai hùng nhất trong lịch sử Việt Nam
2. Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn


Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

Hoàng Tử Bé

                                                                                                       Saint-Exupéry 
                                                                                                             (Trích)

I

     Hồi lên sáu, có lần tôi đã nhìn thấy một bức tranh tuyệt đẹp trong một cuốn sách nói về Rừng hoang nhan đề "Những chuyện có thật". Nó vẽ một con trăn đang nuốt một con thú. Đây là bản sao của bức tranh đó. 

     Người ta nói trong sách: "Con trăn nuốt chửng cả con mồi mà không nhai. Sau đó nó không thể nhúc nhích được nữa và nó nằm ngủ sáu tháng liền trong khi chờ tiêu hoá."

     Từ đó tôi hay nghĩ đến các cuộc phiêu lưu trong rừng rậm, và đến lượt tôi, với một cây bút chì màu, tôi đã vẽ được bức phác thảo đầu tiên. Bức phác thảo đầu tiên của tôi. Nó như thế này:



     Tôi đem khoe kiệt tác của mình với những người lớn và hỏi họ rằng nó có làm họ kinh hãi không. Họ trả lời: "Sao lại phải sợ một cái mũ chứ?"


     Bức vẽ của tôi không vẽ một cái mũ. Nó vẽ một con trăn đang nằm chờ tiêu hoá một con voi. Thế là tôi phải vẽ phía trong của con trăn, để cho người lớn có thể hiểu. Người lớn lúc nào cũng cần phải có giải thích. Bức phác thảo thứ hai của tôi nó như thế này: 

     Những người lớn bèn khuyên tôi nên gác sang một bên các bức vẽ trăn kín bụng và trăn hở bụng kia và nên chú tâm học địa lý, sử ký, tính toán và văn phạm. Tôi đã bỏ dở như vậy đó, vào năm lên sáu, một sự nghiệp hội hoạ tuyệt vời. Tôi bị thất vọng vì sự thất bại của bản thảo số một và số hai. Những người lớn chẳng bao giờ tự họ hiểu được cái gì cả, và thật là mệt cho trẻ con lúc nào cũng phải giải thích cho họ.

      Vậy là tôi phải chọn nghề khác, và tôi học lái máy bay. Tôi đã bay khắp thế giới mỗi nơi một tí. Và môn địa lý, đúng như vậy, đã giúp tôi rất nhiều. Tôi biết làm thế nào để chỉ nhìn qua một cái là phân biệt được ngay Trung Quốc với Arizona. Cái đó thật là ích lợi nếu như người ta bay lạc đường trong đêm tối.


      Tôi cũng đã gặp trong đời tôi cả đống những con người nghiêm chỉnh. Tôi đã sống nhiều với những người lớn. Tôi đã nhìn thấy họ rất là gần. Nhưng cái đó chẳng làm thay đổi ý kiến của tôi bao nhiêu.


     Mỗi lúc gặp một người lớn có vẻ sáng sủa một tí, tôi lại thử ông ta bằng bức phác thảo số một mà tôi luôn mang theo. Nhưng luôn luôn ông ta trả lời: "Đấy là một cái mũ". Thế là tôi chẳng thèm nói với ông ta về trăn rắn, rừng hoang hay các vì sao nữa. Tôi tự hạ mình xuống ngang tầm ông ta. Tôi nói về chơi bài, chơi gôn, chính trị và càvạt. Và con người lớn kia cảm thấy hài lòng vô cùng khi được quen một con người biết điều như vậy.

II

     Tôi đã sống cô đơn như vậy đó, chẳng có ai để chuyện trò thực sự, cho đến khi máy bay của tôi bị hỏng giữa sa mạc Sahara, cách đây sáu năm. Có cái gì đó trong động cơ của tôi bị gãy. Và tôi chỉ đi một mình không có hành khách cũng chẳng có thợ máy, tôi phải một mình bắt đầu cuộc sửa chữa khó khăn. Đấy là vấn đề sống chết với tôi. Tôi chỉ có đủ nước để uống trong nhiều nhất là tám ngày.

     Đêm đầu tiên vậy là tôi phải ngủ trên cát ở cách xa nơi người ở hàng ngàn dặm. Lúc đó tôi còn cô độc hơn cả một kẻ đắm tàu trên chiếc bè lên đênh giữa biển. Bạn chắc sẽ tưởng tượng ra nỗi kinh ngạc của tôi, vào lúc mờ sáng, khi một giọng nói nhỏ nhẹ lạ  lùng đã đánh thức tôi dậy. Cái giọng ấy nói:

– Nếu ông vui lòng ... xin vẽ hộ tôi một con cừu!
– Cái gì?
– Xin vẽ hộ tôi một con cừu ...
     Tôi nhảy dựng lên như là bị sét đánh. Tôi dụi mắt thật kỹ. Tôi đã nhìn thật kỹ. Và tôi thấy một cậu bé thật khác thường đang nhìn tôi với vẻ nghiêm trọng. Đây là bức chân dung đẹp nhất mà về sau tôi vẽ được về cậu bé ấy. Nhưng bức vẽ của tôi chắc là kém đẹp hơn người mẫu nhiều. Không phải lỗi tại tôi. Tôi đã bị người lớn làm cho nản lòng trong sự nghiệp hội hoạ từ hồi sáu tuổi, và tôi có bao giờ học vẽ cái gì ngoài những con trăn khép kín và những con trăn hở đâu. 



     Vậy là tôi nhìn cái sự hiển hiện đó với hai con mắt tròn xoe vì kinh ngạc. Xin nhớ là lúc ấy tôi đang ở cách mọi chỗ có người hàng ngàn dặm. Thế mà cậu bé của tôi trông chẳng giống như bị lạc đường, chẳng hề mệt lả, chẳng hề đói, chẳng hề khát nước hay sợ hãi gì cả. Cậu ta chẳng có vẻ gì của một cậu bé lạc giữa sa mạc, cách nơi có người cả ngàn dặm. Tới khi mở được miệng, tôi hỏi em:

– Nhưng ... em làm cái gì ở đây?

     Thế là em lặp lại câu nói lúc nãy, thật nhẹ nhàng, như là một điều rất quan trọng:


– Nếu ông vui lòng ... xin vẽ hộ tôi một con cừu ...

     Khi mà sự bí ẩn quá lớn, người ta không dám không vâng lời. Dù điều này thật là vô lý khi tôi đang ở cách xa nơi người ở cả ngàn dặm và đang bị nguy đến tính mạng, tôi rút trong túi ra một cây bút và một mảnh giấy. Nhưng tôi sực nhớ rằng mình đã chỉ học địa lý, sử ký, tính toán và văn phạm, và tôi nói với cậu bé (có vẻ hơi khó chịu) rằng tôi không biết vẽ. Em trả lời tôi:

– Không sao đâu. Xin vẽ hộ tôi một con cừu.
     Bởi vì tôi chưa bao giờ vẽ một con cừu cả nên tôi vẽ lại cho em một trong hai bức tranh mà tôi có thể vẽ. Đó là hình con trăn kín.

Và tôi sững sờ khi nghe cậu bé trả lời:
– Không! Không! Tôi không muốn một con voi trong bụng một con trăn đâu. Con trăn nguy hiểm lắm, còn con voi thì quá kềnh càng. Chỗ tôi bé lắm. Tôi cần một con cừu. Hãy vẽ cho tôi một con cừu!

     Thế là tôi vẽ. 


    Em nhìn chăm chú, rồi nói:

– Không! Con này ốm quá. Hãy vẽ con khác đi.

     Tôi vẽ. 

     Cậu bé của tôi cười nhẹ, giọng khoan dung:

– Ông thấy đấy ... đây không phải con cừu, đây là dê. Nó có sừng ...

     Tôi lại vẽ lại lần nữa. Nhưng bức này cũng bị từ chối như các bức trước.


– Con này già quá. Tôi muốn một con cừu sống thật lâu.

    Bấy giờ tôi hết kiên nhẫn, bởi sốt ruột muốn bắt đầu tháo máy, tôi vẽ nguệch ngoạc bức vẽ này đây.

     Và tôi nói bừa:

– Đây là cái thùng. Con cừu chú muốn nó ở trong ấy đấy.

     Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy mặt vị quan toà nhỏ của tôi sáng rõ lên:

– Đúng là cái mà tôi muốn đấy! Ông nghĩ có cần nhiều cỏ cho con cừu này không ạ?

– Sao vậy?

– Vì chỗ tôi bé lắm ...

– Chắc là đủ. Tôi vẽ cho em một con cừu bé xíu ấy mà.

      Em cúi đầu xuống bức vẽ:

– Không nhỏ lắm đâu ... Kìa! Nó đã ngủ rồi ...

     Và như thế đấy, tôi đã làm quen với ông hoàng bé nhỏ.

Vĩnh Lạc (dịch)

---------------------------------------


1.   Hoàng tử bé (1943, Le Petit Prince) - minh họa bởi chính tác giả- là câu chuyện về một phi công phải hạ cánh khẩn cấp trong sa mạc. Anh gặp một cậu bé, người hóa ra là một hoàng tử từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc phiêu lưu của em trên Trái Đất và về bông hồng quí giá trên hành tinh của em. Em thất vọng khi phát hiện ra hoa hồng là loài bình thường như bao loài khác trên Trái Đất. Một con cáo sa mạc khuyên em nên yêu thương chính bông hồng của em và hãy tìm kiếm trong đó ý nghĩa của cuộc đời mình. Nhận ra điều ấy, hoàng tử quay trở về hành tinh của em...
- Hoàng tử bé được viết ở New York trong những ngày tác giả sống lưu vong và được xuất bản lần đầu tiên tại New York vào năm 1943, rồi đến năm 1946 mới được xuất bản tại Pháp. Không nghi ngờ gì, đây là tác phẩm nổi tiếng nhất, được đọc nhiều nhất và cũng được yêu mến nhất của Saint-Exupéry. Cuốn sách được bình chọn là tác phẩm hay nhất thế kỉ 20 ở Pháp, đồng thời cũng là cuốn sách Pháp được dịch và được đọc nhiều nhất trên thế giới. Với 250 ngôn ngữ dịch khác nhau kể cả phương ngữ cùng hơn 200 triệu bản in trên toàn thế giới, Hoàng tử bé được coi là một trong những tác phẩm bán chạy nhất của nhân loại. 
 Ở Việt Nam, Hoàng tử bé được dịch và xuất bản khá sớm. Từ năm 1966 đã có  đồng thời hai bản dịch: Hoàng tử bé của Bùi Giáng do An Tiêm xuất bản và Cậu hoàng con của Trần Thiện Đạo do Khai Trí xuất bản. Từ đó đến nay đã có thêm nhiều bản dịch Hoàng tử bé mới của các dịch giả khác nhau. Bản dịch Hoàng tử bé lần này, xuất bản nhân dịp kỷ niệm 70 năm Hoàng tử bé ra đời, cũng là ấn bản đầu tiên được Gallimard chính thức chuyển nhượng bản quyền tại Việt Nam, hy vọng sẽ góp phần làm phong phú thêm việc dịch và tiếp nhận tác phẩm quan trọng này với các thế hệ độc giả. 

2. Về tác giả  Saint-Exupéry 
3. Lời tựa của tác giả cho cuốn sách:
Gửi Léon Werth
The Little Prince on Asteroid B-612

Tôi xin lỗi các em bé vì đã đề tặng cuốn sách này cho một ông người lớn. Tôi có một lý do bào chữa nghiêm chỉnh : ông người lớn này là người bạn tốt nhất mà tôi có trên đời. Tôi có một lý do khác nữa: ông người lớn này có thể hiểu mọi chuyện, ngay cả những cuốn sách viết cho các em bé. Tôi có một lý do thứ ba: ông người lớn này hiện đang sống đói và rét ở nước Pháp. Ông ấy quả thật đang cần được an ủi. Nếu mà tất cả những lý do bào chữa ấy vẫn không đủ, thì tôi rất muốn tặng cuốn sách này cho cậu bé hồi xưa, mà đã là ông người lớn bây giờ. Tất cả mọi người lớn lúc đầu đều là những em bé (nhưng ít người trong số họ còn nhớ điều ấy). Vậy tôi xin chữa lại lời đề tặng :

Gửi Léon Werth
Khi ông ấy còn là một cậu bé.

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Dạ khúc cuối trước khi xa xứ

HG: Không chỉ nghe lại bản nhạc ưa thích, mà như tìm trong hồi ức cả trời kỷ niệm...



       Vào thế kỉ 18, nocturne (dạ khúc) là một thể loại soạn cho dàn nhạc thính phòng gồm nhiều chương gần giống với serenade thế kỉ 18, thường được chơi tại các bữa tiệc đêm. Các nocturne, mà tên tiếng Ý là notturno, chủ yếu lấy cảm hứng từ đêm hoặc gợi lên không khí của đêm.  
     Nhưng đến thế kỉ 19, một nhà soạn nhạc người Ireland là John Field đã sáng tạo ra kiểu norturne chỉ có một chương dành cho piano độc tấu. Các nocturne Lãng mạn của John Field mang đặc trưng giai điệu có thể hát lên được (cantabile) và sử dụng nhiều hợp âm rải. 
 
     Nhắc đến nocturne Lãng mạn thì không thể không nhắc đến tên tuổi Frédéric Chopin - người kế thừa và đưa thể loại này lên đỉnh cao. Trong số 21 bản nocturne của Chopin, hầu hết đều là các kiệt tác của thể loại nói riêng và của âm nhạc cho piano nói chung. Cũng giống như với thể loại valse, nocturne được Chopin sáng tác trải dài suốt sự nghiệp. Ông viết bản nocturne đầu tiên vào năm 1827 khi còn là sinh viên tại Nhạc viện Warsaw. Bản nocturne cuối cùng được viết năm 1846 khi sức khỏe của ông suy giảm nghiêm trọng vì bệnh lao và lúc mối quan hệ yêu đương khá lâu dài của ông với nữ văn sĩ Pháp nổi tiếng George Sand sắp chấm dứt. Các tác phẩm của Chopin không được xuất bản chính xác theo trình tự thời gian sáng tác. Vì thế đôi khi một tác phẩm mang số hiệu lớn (No hoặc Op) lại có thể được sáng tác trước một tác phẩm ở cùng thể loại có số hiệu nhỏ hơn. Bản Nocturne No. 20 giọng Đô thăng thứ là một trường hợp như vậy. 
 
     Nocturne No. 20 giọng Đô thăng thứ nằm trong số những tác phẩm cuối cùng được Chopin viết trước khi rời Ba Lan vào ngày 2 tháng 11 năm 1830. Giống như nhiều sáng tác thời kỳ đầu, nó không có số Op và chỉ được xuất bản khá lâu sau khi Chopin qua đời (đến tận năm 1870). Mặc dù theo danh mục xuất bản nó mang số 20 (No. 20) nhưng thực tế đây lại là bản nocturne thứ hai, được viết cách bản nocturne thứ nhất (theo danh mục tác phẩm là Nocturne No. 19 Op. 72 giọng Mi thứ) khoảng 1 đến 2 năm. Hai nocturne đầu tiên này cũng chứa đựng niềm say đắm riêng tư và tính chất âu sầu như trong các norturne về sau này của Chopin. 
 
     Trong một cuốn sách tiểu sử Nicolo Paganini mà người viết bài này từng đọc, một thầy tu đã lên án Chopin và thứ âm nhạc thế tục của Chopin như sau: “Một con người lúc nào cũng âu sầu vì chưa đạt được những khát vọng trần tục. Còn những người đàn bà thì sau khi dự những buổi hòa nhạc tai hại đó về đã mất đi sự trong sạch của đức tin thiên bẩm và trong lòng tràn ngập những xúc cảm tội lỗi.”  Có thể coi đây là lời khen tặng đắt giá và khách quan nhất dành cho các nocturne của Chopin. Những trái tim mẫn cảm, nhất là của những thính giả nữ, có thể nào không rung động trước xúc cảm chân thành, dịu dàng mà cháy bỏng được thể hiện qua những giai điệu tuyệt đẹp và hòa âm độc đáo trong các nocturne của Chopin - người được mệnh danh là “nhà thơ của cây đàn piano”?
      Nocturne No. 20 giọng Đô thăng thứ mở đầu bằng một đoạn introduction (giới thiệu) ngắn, vừa trang nghiêm vừa sầu não trong vẻ ngập ngừng và chậm rãi. Tiếp theo, chủ đề chính u sầu được trình bày với những nốt láy duyên dáng, gợi nhắc không khí tĩnh mịch của đêm tối. Bầu không khí xúc cảm trở nên sáng sủa hơn nhưng vẫn không thể nào xua tan được tính chất hoang vắng mà giai điệu mở đầu tạo thành. Chủ đề chính trở lại ở nửa sau bản nocturne nhưng giờ đây nó day dứt hơn. Nỗi buồn dần trở thành nỗi thất vọng tràn trề khi âm nhạc dịu dàng tắt lặng kết thúc tác phẩm. 

Adrien Brody đóng vai nghệ sỹ dương cầm trong The Pianist

     Nếu đã từng xem bộ phim The Pianist (giành được 3 tượng vàng Oscar và 43 giải thưởng danh giá khác), bạn sẽ nhận ra Nocturne No. 20, giọng Đô thăng thứ trong một trường đoạn ấn tượng ngay đầu phim: Đài phát thanh Warsaw bị trúng bom Đức trong lúc Wladyslaw Szpilman (do Adrien Brody thủ vai) đang thu âm bản nhạc này tại đây. Đạo diễn người Ba Lan Roman Polanski xây dựng bộ phim The Pianist dựa trên cuốn hồi ký cùng tên của nghệ sĩ dương cầm Ba Lan gốc Do Thái Wladyslaw Szpilman, người sống sót qua nạn tàn sát người Do Thái của Đức quốc xã trong thế chiến thứ hai.  Nocturne No. 20 giọng Đô thăng thứ là nocturne cuối cùng Chopin viết trước khi xa xứ mà chẳng hề ngờ rằng, vì chiến tranh, ông sẽ không bao giờ còn được trở lại quê hương. Vì điều đó mà các nhà làm phim chọn nó làm bản nhạc cuối cùng Wladyslaw Szpilman chơi trước khi trải nghiệm thế chiến khốc liệt nhất thế kỉ 20 - cuộc chiến mà Ba Lan là một trong những dân tộc chịu nhiều hi sinh mất mát nhất.    
     Nỗi niềm riêng tư trong nocturne của Chopin cũng là nỗi niềm chung của dân tộc Ba Lan và của những người yêu cái đẹp trên toàn cầu. 
  • Ngọc Anh

---------------------------------------------------

Nghe Nocturne No. 20 trên nền một số cảnh đoạn trong  bộ phim The Pianist  (Nghệ sĩ dương cầm):