Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Hãy nhìn không chỉ bằng mắt...

        Mình nhớ hồi sinh viên, những buổi liên hoan chúng bạn hay bày trò, trong đó có trò "Tập tỏ tình": chúng nó phân chia bằng gắp thăm để một bạn  nam với một bạn nữ "cặp đôi" với nhau. Khi đến lượt, trước những cặp mắt long lanh của  toàn thể "văn võ bá quan" đang nín thở theo dõi, cậu con trai sẽ nói với cô bạn những lời tỏ tình... Nếu cậu ta nói mà làm cô bạn không nín được cười thì cô sẽ phải chịu để cậu... hôn một cái vào vào má; còn nếu không tác động được gì, cô bạn cứ thản nhiên như không, thì cậu sẽ bị cô "táng" một quả vào lưng...

        Mình rất ấn tượng cô bạn thông minh của mình với đoạn đối thoại "mùi mẫn" sau:
Cậu chàng: "H.! hãy nhìn vào mắt T. đi!... H. có thấy gì trong mắt T. không?"
Cô nàng:    " Có, H. có thấy.  H. trông thấy trắng đen lẫn lộn!..."

       Ui chao, sao mà hay thế! Chẳng nhớ sau một hồi "cưa cẩm", có  người "bị" hôn hay có người "được" đánh, nhưng mà chuyện "trắng đen lẫn lộn" này thì mình không thể quên được.

       Mình từng sử dụng chiêu "nhìn vào mắt" với con và với... học trò.
      Từ khi Dế Anh 5, 6 tuổi, nghi ngờ con trai nói dối một chuyện, mẹ bảo: "Con ngồi xuống đây" (chỉ vào ghế đối diện). "Con, nhìn vào mắt mẹ đi và nói lại cho mẹ xem, có đúng là (...)". Dế anh (sau khi hai mẹ con nhìn vào mắt nhau vài chục giây (hay có thể chỉ là vài giây chăng (?!)): "Mẹ ơi! Không, con (...)"
       ...
        Sau đôi lần như vậy, Dế anh ngoan lên nhiều. Có lần, sau một hồi loanh quanh, tần ngần, Dế anh hỏi: "Sao khi nhìn vào mắt thì người ta lại không nói dối được hả mẹ?".
      ...
        Nếu là bạn, bạn trả lời con thế nào?
        Ừ, tại sao khi con nhìn vào mắt mẹ, con lại nhận lỗi nhỉ?
       Thế tại sao mẹ không ý thức được rõ... mà mẹ lại làm thế nhỉ? Sao mẹ lại tin, là con sẽ nhận lỗi?
       Đến lượt Dế em, cũng xảy ra tương tự, và rồi một ngày lại cũng đến một câu hỏi ngạc nhiên, thơ ngây: "Tại sao nhìn vào mắt thì phải nói thật hả mẹ?"

        Giờ toán. "Tổ trưởng kiểm tra bài tập cả tổ cho cô!";"...";  "...Thưa cô, có bạn Nguyên quên vở bài tập thôi ạ!"; "Thế à Nguyên?" ; "Vâng ạ!" (ráo hoảnh); "Nguyên!"   "Dạ?"; "Con nhìn thẳng vào mắt cô và nói xem, là con quên vở hay là con chưa làm bài tập? Nhìn vào mắt cô đây!...". Thế là nhìn... nhìn... trong tiếng cười của cả lớp... Rồi lại chỉ được vài giây thôi, Nguyên đỏ bừng mặt "Cô ơi!...", cười xấu hổ, ôm hai bàn tay che gương mặt đỏ đến mang tai. Cả lớp lại cười òa...

        Mình lý giải cho mình thật đơn giản rằng, trong những hoàn cảnh ấy, có hai vế. Vế thứ nhất là sức mạnh niềm tin của mình chứa trong ánh mắt khi mình thực hiện việc làm đó, tin việc mình đang làm thực sự có giá trị, và mình truyền được niềm tin  khi giao ánh mắt với "đối tượng"; còn vế thứ hai:  "đối tượng" của mình ở đây có tâm hồn trong trẻo, dễ rung động, dễ hấp thu những gì cao cả, thiêng liêng, tốt đẹp. Nếu không có cả hai vế ấy, hoặc giả thử chỉ không có một vế thôi, thì tất cả có khi cũng chỉ như trò vui, hoặc như là "đấm bị bông"...- Những tình huống ấy đều sẽ vô cảm, dù có  nhìn mãi vào mắt nhau, cũng chẳng tìm  thấy sự thực ở đâu, chỉ thấy... trắng đen lẫn lộn.
                                                                                                                                 Hoa giấy.

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

Truyện: Nói dối như Cuội

          HG: Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam, mình không ưa truyện "Nói dối như Cuội", vì thấy chú này "cuội" quá, mỗi ngày một thêm xảo trá, ác độc đến đáng ghét, đến nỗi mất cả chút cảm tình của mình với một nhân vật lanh lợi và khôn ngoan hơn người. Mình thấy tác giả dân gian sao mà... ác ác khi cứ để nhân vật Cuội lấn lướt, tung hoành. Kết thúc cũng là đỉnh điểm: Cuội lên làm vua. Thật là một cái kết không có hậu! Dối lừa và độc ác lên ngôi... Giờ đây, mình thấy có lẽ trước mình nghĩ vậy là chưa tới.
       Truyện dân gian còn lại đến bây giờ đâu cốt chỉ để mua vui "một vài trống canh". Ngoài những nạn nhân cả tin vô tội đáng thương, còn lại do hám danh hoặc nhiều tính tham mà thành nạn nhân "nặng kí" của Cuội. Càng về sau, nhân vật càng háo danh hoặc tham lam bao nhiêu thì càng bị trả giá đau bởi sự lọc lừa  bấy nhiêu. Cái ác và sự xảo trá nảy nở tốt tươi khi gặp đất sống... Vậy tại sao không cứ đọc để ngẫm nghĩ mà rút ra hai bài học con người: Một, là bài học cảnh giác với sự dối trá đến mức tàn độc; Hai, là bài học về thói ham danh lợi, ham những thứ không thuộc về mình, đến mức mù quáng... Đó phải chăng là thông điệp của tổ tiên thông minh muốn nhắn gửi hậu thế.
          Lại sắp đến ngày Cá tháng Tư... 
        
NÓI DỐI NHƯ CUỘI
(Truyện cổ dân gian Việt Nam)

Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi tên là Cuội. Từ thuở nhỏ, Cuội mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi ở với chú thím. Hắn ta là tay láu lỉnh, đặc biệt về môn lừa người thì rất thành thạo. Một lão trọc phú ở trong miền nghe tiếng đồn về Cuội tỏ vẻ không tin. Một hôm, hắn cho người gọi Cuội đến và bảo:
- Nghe nói mày lừa người giỏi lắm. Bây giờ tao ngồi ở đây, đố mày lừa tao cho tao ra ngoài cổng thì tao lập tức thưởng cho mày năm quan. Đấy có mọi người làm chứng đấy!
Cuội ta gãi đầu gãi tai đáp:
- Ông ngồi ở đây, lại có đề phòng sẵn thì làm sao mà lừa ông ra ngoài kia được. Nếu ông ra đứng ngoài cổng tôi mới có cách lừa được ông vào nhà.
Nghe nói thế, lão trọc phú chạy ra cổng. Nhưng khi đến nơi, Cuội đã vỗ tay reo:
- Đấy tôi đã lừa được ông ra cổng rồi!
Trọc phú bị tẽn vì thua cuộc đành phải y ước đem tiền cho Cuội.
Nhà chú thím Cuội có nuôi một con lợn béo. Một hôm nhân lúc mọi người đi vắng cả, Cuội gọi người hàng thịt đến nhà bán rẻ con lợn đó lấy tiền tiêu. Cuội chỉ dặn người ấy giấu kín cho mình và xin lại cái đuôi lợn sống. Hắn đã tìm ra được một mưu để nuốt trôi con lợn. Hắn đào một cái lỗ nhỏ ở đám đất gần chuồng lợn, cắm cái đuôi vào đó rồi nện đất rất chặt. Chờ lúc người thím đi làm về, hắn làm vẻ mặt hốt hoảng, nói:
- Thím ơi! Thật là số không may. Ông gì ấy ông bắt mất lợn nhà ta. Nó xuống âm phủ mất rồi.
Rồi Cuội dắt thím ra chuồng lợn, nói tiếp:
- Nó đã xuống cả hai chân sau rồi, chỉ còn cái đuôi, bây giờ thím hãy giữ lấy cái đuôi đừng cho nó xuống mà cũng đừng giật mạnh kẻo đứt mất là hỏng việc. Cháu sẽ lấy thuổng đào đất xung quanh, may chi bắt nó trở về.
Người thím nghe nói tưởng ông gì bắt lợn thật, vừa lo sợ vừa tiếc của, giục Cuội làm nhanh. Cuội lẳng lặng lấy thuổng đào đất. Đất bở ra cái đuôi không kéo tự nhiên rời khỏi mặt đất. Thấy thế hắn la to lên:
- Thôi! Thế là lợn xuống âm phủ mất rồi. Còn làm ăn gì được nữa.
Một hôm, Cuội cùng chú đi chợ. Cuội xách một cái thúng không. Đột nhiên. Cuội chạy lên trước bỏ quá chú một quãng rồi lấy thúng úp một bãi cứt trâu ở dọc đường. Khi người chú vừa đến nơi, Cuội khư khư giữ chịt lấy thúng, bảo:
- May quá! Cháu vừa úp được một con chim ngói to lắm! Nhưng nếu bây giờ thò tay vào bắt thì nó trượt mất. Vậy chú mau mau về lấy tay lưới giăng chung quanh để bắt cho chắc. Con này mà đánh chén thì tuyệt!
Người chú vốn có máu tham, nghe hắn nói thế tưởng thật, vội vã trở về nhà lấy lưới đến giăng bốn bên thúng rất cẩn thận. Mọi người xúm lại xem rất đông. Nhưng khi Cuội giở thúng ra, ai nấy đều phì cười vì chỉ thấy một bãi cứt trâu, chả có chim đâu cả. Riêng người chú bị Cuội đánh lừa, giận thâm gan tím ruột, bèn không đi chợ nữa, dắt Cuội về đánh cho một trận thừa sống thiếu chết.
Một hôm khác, Cuội cùng chú đang cuốc cỏ ngoài đồng. Trời nắng như thiêu như đốt. Khát quá, người chú bảo hắn về nhà lấy nước mang ra. Vừa đến nhà, Cuội đã làm vẻ hốt hoảng, nước mắt giàn giụa, miệng mếu nói không ra tiếng:
- Khốn khổ lắm thím ơi! Chú bị trâu húc lòi ruột gan ra một đống. Hiện đã tắt thở, còn nằm trên cồn...
Người thím nghe nói chỉ còn biết kêu trời khóc đất rồi bươn bả ra đồng, vừa đi vừa ôm mặt than khóc rất thảm thiết. Cuội ta lại lẻn theo đường tắt, ba chân bốn cẳng chạy ra đồng. Sắp đến nơi, hắn cũng làm bộ đau đớn, bảo chú:
- Chú ơi! Trời hại ta. Thím ở nhà không biết leo trèo thế nào bị ngã từ trên gác xuống, chết tím cả mặt, không một ai biết cả.
Người chú nghe nói, tưởng thật, đấm ngực kêu trời rồi chạy về kêu khóc suốt cả dọc đường. Đến khi hai vợ chồng đâm sầm vào nhau mới biết là thằng cháu ác nghiệt đánh lừa. Hai vợ chồng tức giận điên cuồng bèn đan một cái rọ bỏ Cuội vào rồi một mình chồng vác ra sông định vứt xuống nước.
Đến bờ sông, Cuội ta cầu khẩn: - "Cháu có tội với chú thím, chú thím bắt chết cũng đáng. Có điều ở dương gian cháu nói láo kiếm ăn được là nhờ có một quyển sách nói láo bấy lâu nay vẫn gác trên sàn bếp. Nay chú làm ơn nghĩ đến chút tình máu mủ về lấy giùm quyển sách đó đặng cháu mang theo xuống âm phủ kiếm ăn". Nghe hắn nói có vẻ thảm thiết, người chú tưởng thật, nghĩ bụng, tay hắn mình đã trói, rọ lại buộc chặt không thể trốn đi đằng nào được, bèn tất tả chạy về lấy sách.
Đang ngồi co ro trong rọ bỗng trông thấy một thằng hủi đi qua, Cuội gọi giật lại:
- Này hủi ơi! Tao trước cũng sưng da thối thịt như mày, nhưng trời run rủi cho tao ngồi vào đây, thế rồi tao được người ta đưa xuống nước chạy chữa, rồi lại khiêng lên, bây giờ lành hẳn cả rồi. Mày cứ mở cho tao ra mà xem.
Hủi tưởng thật, mở rọ cho Cuội ra, tấm tắc khen phép chữa mầu nhiệm rồi mừng rỡ nói:
- May cho tôi quá! Thế anh cho tôi ngồi vào đây rồi anh buộc hộ cho tôi với. Có mấy quan tiền xin được nhân thể tôi biếu anh.
Được tự do, Cuội chờ cho hủi vào, buộc rọ lại cẩn thận rồi cầm tiền đi thẳng.
Lại nói chuyện người chú về nhà tìm mãi trên sàn bếp chẳng thấy gì cả, mớt biết là mình lại bị lừa lần nữa, giận quá, hầm hầm trở ra, chẳng nói chẳng rằng đạp rọ lăn xuống sông. Thế là hủi ta mất tích.
Cuội theo dọc sông đến một cái cầu, nhân trời nóng nực mới cởi áo xuống tắm. Mấy quan tiền của hủi cho, hắn sợ để trên bờ có người lấy mất nên mang cả xuống sông. Một ông quan cưỡi ngựa đi qua trên cầu, thoáng thấy có thằng bé lặn ngụp dưới nước, một tay giơ lên cao có cầm cái gì giống như là quan tiền. Quan động lòng tham, dừng ngựa lại hỏi.
- Bé kia, mày làm gì ở dưới đó?
Cuội làm bộ tìm tòi, nói với quan:
- Tôi mang đi cho cha tôi một thỏi vàng, một thỏi bạc và mấy quan tiền, lúc đứng chơi ở cầu không may lỡ lay đánh rơi xuống mất cả. Nay tôi lặn lội tìm chỉ được có mấy quan tiền mà thôi. Giờ tôi mà về, cha tôi thì đánh chết.
Nói đoạn. Cuội hu hu khóc. Ông quan bèn xuống ngựa, cởi quần áo bảo Cuội:
- Mày bước lên mau đi, để tao còn xuống tắm. Cút mau!
Ý của hắn là muốn một mình mò tìm, tìm được thì giấu đi một chỗ để số vàng bạc ấy về tay hắn hưởng. Vừa nói hắn vừa lội xuống nước.
Cuội bước lên bờ vội lấy ngay quần áo của viên quan ra mặc.
Quan hỏi:
- Mày làm gì thế.
Cuội đáp:
- Tôi rét quá, nhờ áo ông mặc đỡ một tý cho ấm.
- Thế tên mày là gì? Quê quán Ở đâu?
- Tôi họ Bái, tên Dưng, ở Bông lông xã, Ba la huyện.
Mặc xong, Cuội chờ lúc quan lặn xuống nước, lên ngựa phi nước đại. Viên quan lặn tìm mấy lần không thấy gì cả, nhìn lên bờ thì đã mất cả ngựa lẫn áo quần. Biết là bị thằng bé đánh lừa, hắn vừa tức giận vừa hoảng hốt. Cuối cùng hắn dùng mấy cái đồ rách của Cuội bỏ lại, che tạm hạ bộ để chạy đi tìm Cuội. Gặp ai hắn cũng hỏi: - "Có thấy tên Bái Dưng vừa chạy qua đây không?"' Nghe hỏi thế mọi người chỉ tủm tỉm cười. Mãi đến khi gặp một người đàn bà, người này đồ hắn là một tên vô lại chọc ghẹo mình, mới quay lại mắng cho một trận. Hắn biết là dại, đành phải im mồm, rồi sau đó nuốt giận lần về nhà.
Lại nói chuyện Cuội phi ngựa về nhà chú thím. Cả hai vợ chồng, nhất là người chồng rất lày làm ngạc nhiên không hiểu tại sao mình đã xô nó xuống sông hai năm rõ mười, thế mà bây giờ nó lại trở về được mà lại ăn mặc đàng hoàng như kia. Hỏi thì Cuội tươi cười đáp:
- Cháu xuống dưới ấy gặp được tất cả mọi người: ông, bà, cha, mẹ, nội ngoại đầy đủ. Cha mẹ cháu giàu có lớn lắm. Nhưng cháu nhớ chú thím quá nên chọn lấy một bộ quần áo, một con ngựa và ít quan tiền trở lên trên này.
Rồi Cuội lại nói thêm:
- Ông bà vẫn nhớ chú thím lắm đấy và có dặn cháu mời chú thím xuống chơi!
Hai vợ chồng người chú nghe nói mừng quá, hỏi Cuội:
- Chúng tao xuống có được không? Cuội trả lời:
- Có khó gì đâu, chú thím cứ làm rọ y như lúc cháu xuống. Nhưng cháu thì không vác nổi đâu, phải mang ra bờ sông, chui vào rọ rồi cháu sẽ lăn xuống thôi!
Người chú vội vàng đan hai chiếc rọ đem ra bờ sông. Đoạn người chú chui vào một chiếc bảo nó buộc chặt lại, vứt xuống. Thấy tăm nước sủi lên sùng sục, Cuội vỗ tay reo:
- A ha! Chú đang lấy đấy!
Nghe nói thế người thím giục Cuội rối rít:
- Cháu cho thím xuống ngay đi!
Người thím lại chui vào rọ để cho Cuội vứt luôn xuống sông. Thế là từ đó Cuội thừa hưởng cơ nghiệp của chú thím để lại.
Nhưng Cuội ăn chơi loang toàng chả mấy chốc đã bán hết gia tư điền sản. Hắn muốn đi chơi một phen cho thật xa, bèn sắm sửa lương thực rồi một hôm bỏ nhà ra đi.
Cuội đến một vùng rừng núi trùng điệp. Ở đây có rất nhiều voi, Cuội bèn nghĩ kế bắt cho được một con. Hắn ta đào một cái hố rất rộng và rất sâu ở chỗ voi hay qua lại. Trên miệng hố có bắc tre nứa lát phên và ghép cỏ rất khéo. Quả nhiên sau đó ba hôm có một con voi bị sa hố đầu chúc xuống dưới, đít chổng lên trời, không cựa quậy được. Cuội dùng đất lấp voi lại chỉ chừa có cái lỗ đít. Và khoét đít voi thành một cái lỗ lớn hơn, rồi cứ để yên tại đó, chỉ thỉnh thoảng đến trông chừng. Hắn bụng bảo dạ: - "Rồi ta sẽ có một con voi biết bay, đi chu du thiên hạ!".
Sau khi voi chết, quạ và diều ngửi thấy mùi thịt liền rủ nhau tới ăn. Chúng nó chui qua lỗ đít tiến sâu vào thân con voi để rỉa lân thịt ở trong đó. Trước còn năm con mười con, sau dần dần có hàng trăm con ngày ngày chui vào chén thịt và lòng rất thỏa thích. Cuội ta chờ đến lúc thịt voi đã gần kiệt, rình khi chim chóc chui vào khá nhiều: mới thình lình đút nút đít voi lại.
Thế rồi Cuội đào đất lên cho cái xác da voi nằm ngay ngắn. Hắn cưỡi lên lưng, dùng gậy đánh nhẹ ở dưới bụng voi. Tự nhiên bầy chim ở trong cái xác da voi bay vụt cả lên, mang cái xác da voi và Cuội lên trời.
Cái xác da voi hay giữa không trung qua những núi dài sông rộng làm cho Cuội nhìn không chán mắt. Cuội cứ để cho bay mãi suốt ngày. Cuối cùng nhìn thấy một kinh thành rộng lớn, trong đó nhà ngói san sát, người qua lại đông không biết bao nhiêu mà kể. Cuội muốn xuống xem thử cho biết. Hắn vỗ mấy cái trên lưng voi, chim chóc thấy động phía trên thì sợ hãi xếp cánh không bay nữa. Cái xác da voi từ từ hạ xuống. Nó rơi xuống trúng giữa sân rồng có các quan đang làm lễ bái mạng.
Nhà vua và tất cả triều thần thấy có một người cưỡi voi từ trên trời xuống thì kinh hãi bội phần, vội vàng sụp xuống lạy Cuội như tế sao. Họ đón Cuội như đón một vị thần vừa giáng hạ. Nhà vua thân đưa Cuội vào nội điện và không dám ngồi ngang hàng.
Cuội sung sướng hưởng những cỗ bàn lễ vật của mọi người đem dâng. Khi nghe Cuội nói đến sự màu nhiệm của con vật, nhà vua cất tiếng run run hỏi: - "Ngài có thể cho quả nhân cưỡi lên voi đi ngắm cảnh gấm vóc trong thiên hạ được chăng?" Cuội đáp: - "Được lắm, nhưng cần phải làm hai việc: một là nhà vua phải thay đổi áo quần cho tôi, vì con vật nó hay lạ hơi người, hai là khi ra giữa biển phải nhớ mở cái nút đằng sau cho nó uống nước".
Không một ai ngăn cản được lòng ham muốn của nhà vua. Cuối cùng cái xác da voi đưa vua lên không trung. Ra giữa biển, vua nhớ tới lời Cuội dặn, mở nút đằng đít để cho voi giải khát. Lũ quạ và diều mấy lâu bị giam cầm, nay thấy có chỗ hở lục tục bay ra tất cả. Cái xác da voi rơi xuống biển và chả mấy chốc nhà vua đã lọt vào bụng cá. Còn Cuội mặc áo hoàng bào lên làm vua nước ấy[1].

[1] Theo lời kể của người Hà-tĩnh, Quảng-bình. Ngoài ra có nhiều dị bản khác tùy theo vùng miền, có thể xem thêm ở đây.



Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Truyện: Anh béo và anh gầy

"Người ta lớn là bởi ngươi quỳ xuống"- Marat.  

ANH BÉO VÀ ANH GẦY                 
                                                                                        Anton Pavlovich Tchekhov
                                                                                                       Truyện ngắn  

          Trên sân ga của tuyến đường sắt Nikôlai có hai người bạn cũ gặp nhau: một người béo, một người gầy. Anh béo vừa ăn ở nhà ga xong, môi láng nhẫy bơ như quả đào chín. Người anh ta toát ra mùi rượu nho loại nặng, mùi nước hoa cam. Còn anh gầy thì mới xuống tàu, hai tay lỉnh kỉnh nào vali, nào hộp, nào túi. Người anh ta toát ra mùi thịt ướp, mùi bã cà phê. Sau lưng anh ta là một người đàn bà gầy gò, cằm dài – đó là vợ anh ta, và một cậu học sinh cao lêu đêu mắt nhíu lại – đó là con trai anh ta.
-     Porphiri đấy à! – anh béo kêu lên khi vừa nhác thấy anh gầy – Đúng là cậu ư? Ôi, ông bạn thân mến của tôi! Bao đông bao hè chúng mình không gặp nhau rồi!

-     Trời! – anh gầy sửng sốt – Misa! Bạn từ thuở nhỏ của tôi! Cậu ở đâu ra thế?

         Hai người bạn ôm hôn nhau đến ba lần, mắt rưng rưng chăm chăm nhìn nhau. Cả hai đều kinh ngạc một cách đầy thú vị.
-     Cậu ạ - anh gầy bắt đầu nói sau khi ôm hôn – Mình quả không ngờ! Đột ngột quá! Nào, cậu nhìn thẳng vào mình xem nào! Ô, trông cậu vẫn đẹp trai như xưa, vẫn lịch thiệp, sang trọng như xưa! Chà, hay thật! À, mà cậu bây giờ thế nào rồi? Giàu không? Lấy vợ chưa? Mình thì có vợ rồi, cậu thấy đấy... Đây, vợ mình đây, Luida, nguyên họ là Vaxenbac, theo đạo Luyte. Còn đây là con trai mình, Naphanain, học sinh lớp ba. Này con, bác đây là bạn hồi nhỏ của bố đấy! Cùng học phổ thông với nhau.
        Naphanain ngập ngừng một lát rồi bỏ chiếc mũ mềm xuống.

-    Cùng học phổ thông với bố đấy con ạ! – anh gầy nói tiếp – À này, cậu còn nhớ cậu bị chúng nó trêu chọc thế nào không? Chúng nó gọi cậu là Gêxôxtrat [1] vì cậu lấy thuốc lá châm cháy một cuốn sách của thư viện, còn mình thì chúng nó gọi là Ephian [2] vì mình hay mách. Hô hô... Dạo ấy bọn mình trẻ con thật! Đừng sợ con, Naphanain! Con lại gần bác chút nữa nào... Còn đây là vợ mình, nguyên họ là Vaxenbac, theo đạo Luyte...

         Naphanain suy nghĩ một lát rồi nép vào sau lưng bố.

-      Này anh bạn, bây giờ sống ra sao? – anh béo hỏi, nhìn bạn mình với vẻ đầy hoan hỉ - Làm ở đâu? Thành đạt rồi chứ?

-      Ừ, mình cũng có đi làm, anh bạn ạ! Hai năm nay mình là viên chức bậc tám, cũng được mề đay “Xtalixnap”. Lương lậu chẳng đáng là bao...nhưng mà thôi, thây kệ nó! Vợ mình dạy nhạc, mình thì làm thêm tẩu thuốc bằng gỗ. Tẩu đẹp lắm cậu ạ! Mình bán một rúp một cái cơ đấy. Nếu ai mua cả chục hay nhiều hơn thì cậu biết đấy, có bớt chút ít. Cũng cố sống qua loa thế nào xong thôi. Cậu biết không, trước mình làm ở cục, bây giờ thì mình được chuyển về đây, thăng lên bậc bẩy cũng trong ngành đó thôi... Mình sẽ làm ở đây. Còn cậu sao rồi? Chắc là cỡ viên chức bậc năm rồi chứ? Phải không?

-      Không đâu, anh bạn ạ, cao hơn thế nữa đấy, - anh béo nói – Mình là viên chức bậc ba rồi... có hai mề đay của Nhà nước.

        Anh gầy bỗng dưng tái mét mặt, ngây ra như phỗng đá, nhưng lát sau thì anh toét miệng cười, mặt mày nhăn nhúm, dường như mắt anh ta sáng hẳn lên. Toàn thân anh ta rúm ró, so vai rụt cổ khúm núm... Cả mấy thứ vali, hộp, túi của anh ta cũng như co rúm lại, nhăn nhó... Chiếc cằm dài của bà vợ như dài thêm ra, thằng Naphanain thì rụt chân vào và gài hết cúc áo lại...

-       Dạ, bẩm quan trên, tôi... tôi rất lấy làm hân hạnh ạ. Bạn nghĩa là bạn... từ thuở nhỏ, thế rồi bỗng nhiên làm chức to thế, hì hì hì...

-      Thôi, cậu đừng nói thế đi! – anh béo cau mặt – Sao cậu lại giở giọng thế? Mình với cậu là bạn từ thuở nhỏ, việc gì cậu lại giở giọng quan cách thế?

-      Dạ bẩm quan... Quan lớn dạy gì kia ạ... – anh gầy cười hì hì, người càng rúm ró hơn – Quan lớn chiếu cố cho thế này là đội ơn mưa móc cho kẻ bần hàn đấy ạ... Dạ bẩm quan trên, thưa đây là con trai tôi Naphanain... và vợ tôi là Luida, theo đạo Luyte đấy ạ...

        Anh béo định quở trách điều gì thêm, nhưng gương mặt anh gầy toát ra vẻ kính cẩn, lâng lâng hoan hỉ đến mức anh béo cảm thấy buồn nôn, Anh béo ngoảnh mặt đi và đưa tay từ biệt anh gầy.

        Anh gầy nắm ba ngón tay anh béo, cúi gập mình xuống chào và cười lên như một chú tẫu: “Hì hì hì”. Bà vợ mỉm cười, Naphanain kéo chân lại và buông thõng chiếc mũ xuống. Cả ba người đều sững sờ một cách đầy thú vị.

Chú thích
[1] Gêxôtrat: người Hy Lạp, năm 356 trước Công nguyên đã đốt đền Actêmiđa Ephecxcaia để tên mình trở thành bất tử.
[2] Ephian: nhà hoạt động chính trị của Aten thời cổ. Năm 480 trước Công nguyên đã phản bội, chỉ cho quân Ba Tư lối đi vòng qua khe Phermôpinxki. Toán dân binh Xpacta ở Hy Lạp bảo vệ khe núi này đã hy sinh một cách anh dũng.
                                                                                (Bản dịch từ Internet, không rõ dịch giả)
 

Rét Nàng Bân, đọc Thương nhớ mười hai

  HG: Hà Nội hai hôm nay đang se se trong cái rét Nàng Bân... 

THÁNG BA
Rét Nàng Bân 
(trích)
                                                                         Vũ Bằng   
      …Nhưng đến tháng ba thì trời đất quả là kỳ ảo.
      Bảo rằng tháng ấy còn rét, không đúng, mà bảo là hết rét rồi cũng không đúng nữa. 
     Trời trong như ngọc, đất sạch như lau. Ngủ dậy lúc còn tối trời, anh ngồi uống nước trà đợi sáng thì uống chưa xong ấm nước, anh bỗng thấy có những đám mây hồng từ phía đông kéo tới giữa một nền trời xanh ngăn ngắt một mầu. Ở đằng sau nhà, chim hót ríu ran, đánh thức những người còn đang thiêm thiếp. Anh mở cửa nhìn ra ngoài thì lá cây sạch bong ra, lóng lánh như ở trong một phim ảnh mầu tuyệt đẹp: sương móc ban đêm rửa hoa lá cỏ cây, rửa cả cát bụi trên các nẻo đường thành phố. 
     Giẫm đôi giày lên trên đất mịn màng, anh cảm thấy cái mát mẻ của đất, của sương vương trên cỏ thấm vào lòng anh y như thể anh đi chân không vậy. Chim vẫn hót ríu ran. Anh nhìn lên trời cười thì những đám mây hồng toả ra một thứ ánh sáng trắng như sữa, nhẹ như bông, tràn lan trong không khí và úp chụp lấy các lùm cây nội cỏ. Anh tự nhủ: “Hôm nay chắc nắng to”. Anh sửa soạn một bộ quần áo mỏng để mặc cho nhẹ nhõm và dễ chịu.  
     Thì quả nhiên, đến buổi trưa nắng thực, nhưng đi lên lầu ngủ vừa dậy, anh cảm thấy có một cái gì rất lạ xảy ra. Anh nhắm mắt lại, nằm lặng ngóng, để xem cái tiếng reo ở ngoài vườn vọng lại là tiếng gì mà đến bất thình lình và xôn xao như vậy. Thì ra đó là tiếng reo của gió, của mây, của lá: chính trong khi ta đương mộng về Tây Phàn với mấy cô nàng sơn cước, trời đã chuyển bất ngờ, đương nắng thành râm, và chỉ trong khoảnh khắc, rét cuối chạp, đầu xuân đã về trên cánh gió, giữa một khoảng trời tháng ba nắng ấm.

     Cái tháng ba ở Bắc có những ngày huyền ảo như thế đấy. Nếu là người thích ví von, anh có thể ví tháng ấy với một cô gái có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước. 
     Đẹp đến nghiêng nước nghiêng thành thì có quyền làm nũng như Dương Quý Phi làm nũng vua Đường Minh Hoàng: không đau răng cũng nhăn mặt cho thêm xinh, mà vì có đâu răng thực thì phải ăn trái lệ chi mà quân sĩ phải rong ngựa đi năm sáu ngày trời mới mong kiếm được. Yêu Quý Phi quá, thì Quý Phi càng làm nũng, mà Đường Minh Hoàng lại càng sủng ái Quý Phi hơn. Thì người Bắc đối với tháng ba cũng vậy: yêu cái nắng ấm của tháng ba nhưng cũng yêu cái rét đột ngột của tháng ba, mà nếu ví dụ trong tháng ấy có ngày nào nắng chói chang làm cho “chó già le lưỡi” thì cũng cứ yêu luôn, yêu không kỳ quản. Người đẹp mà làm nũng thì lại càng đẹp hơn.

      Tôi yêu tháng ba đất Bắc một phần vì thế và tôi không muốn tin rằng cái rét tháng ba có thể làm cho “bà già chết cóng”. Tôi chỉ thích nghĩ rằng cái rét đôi khi bất ưng trở về với tháng ba là một cái rét thơ mộng, cái rét của một trời đầy hương và ngát hoa, trong đó có những chàng trai mặc quần đỏ ngồi bên án sách ngâm thơ, nhưng gặp lúc ngửa nghiêng thì:
                                      Xếp bút nghiên theo việc đao cung
                                 ...Giã nhà đeo bức chiến bào
                                    Thét roi cầu vị ào ào gió thu
và những người đàn bà thủ tiết chờ chồng và than khóc một mình.
                                    Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
                                    Cỏ có thơm mà dạ chẳng nguôi...
                                    ...
                                    Trông chàng lòng rượi rượi buồn,
                           Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
        Nàng Bân cũng thuộc vào loại chinh phụ đó.
        Thương người ở bên trời, ngay từ khi giá rét bắt đầu, nàng đã lo gửi áo rét cho chồng, nhưng... 
                                   Nàng Bân may áo cho chồng,
                            May ba tháng ròng mới được cửa tay .
                                   Lạy trời cho cả heo may,
                            Nàng Bân chết quách đêm nay cho rồi.
         May ba tháng trời mới được có một cái cửa tay, người chinh phụ ấy hẳn đã buồn quá cho nên thấy gió rét bất ưng trở về tháng ba, thương người quan tái, không kịp có áo gửi đi, nàng cầu trời khấn Phật cho nàng chết quách.
         Hỡi ơi, ở đời này, vào bất cứ thời nào, lại chẳng có hàng triệu nàng Bân. Vì thế nhà thi sĩ không thể không gieo một vần đầy lệ:
                                   Chàng bên trời, thiếp ở Ngô,
                            Chàng đi nhớ thiếp, thiếp mơ tới chàng.
                                   Thư bao nhiêu, lệ bao hàng,
                            Lạnh về, áo đến tay chàng hay chưa?
         Riêng cái tên mà người ta đặt cho cái rét muộn màng đó đã thơ mộng lắm rồi: rét nàng Bân. Nhưng có ai đã từng rét cái rét ấy, sầu cái sầu ấy đôi lần, tất đều nhận thức rằng cái rét ấy còn chứa đựng một cái gì đẹp như thế hay hơn thế: đàn bà, con gái trời đã cho xinh đẹp gặp cái rét nàng Bân tự nhiên đẹp trội hẳn lên, như thể có một chiếc đũa thần làm biến đổi cả máu huyết, màu da, con mắt, miệng cười, tiếng nói. Từ xa, ta cảm thấy người nào cũng thơm thơm như những nụ tầm xuân.
      Vào tháng chạp, tháng giêng, tức là vào cái cữ rét đà, rét lộc, không khí có lúc hanh hao, khô ráo làm cho má và môi người đẹp nẻ ra thành những vết chân chim bé nhỏ. Đến cái rét này thì khác hẳn: tự nó đã đẹp và nên thơ, nó lại còn làm cho má và môi của đàn bà con gái cũng nẻ, nhưng da không nứt rạn mà chỉ ửng hồng lên như thể da một trái đào tơ mịn màng mơn mởn, làm cho chính Liễu Hạ Huệ có sống lại cũng phải bắt thèm…
    Cỏ cây mây nước thấy người ta, trong tháng ấy, tự nhiên đẹp rực rỡ lên, đẹp não nùng, hình như hờn giận và cố ganh đua để cho xanh bằng người, thắm bằng người.  
... 
                                          (Tùy bút:  Thương nhớ mười hai)  
                                                                                                     

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Nhạc cổ điển... Nào, nhắm mắt lại!

           Mình không có mấy kiến thức về âm nhạc. Lâu nay chỉ nghe theo cảm tính, có thêm dẫn dắt của một người Bạn am hiểu... Vậy nên không dám lớn giọng bàn, chỉ khe khẽ nói, rằng có những bản nhạc tuyệt lắm! Lúc thư thả và yên tĩnh để lắng nghe, đôi khi mình hình như không còn ở trạng thái thưởng thức âm nhạc nữa, mà như tan biến tất cả: sự mặc cảm về kiến thức âm nhạc,  cả tâm trạng cụ thể..., tiếp đến quên cả chính mình,  rồi như là quên cả bản nhạc... Chỉ còn "cái gì đó" diễn ra, mơ hồ, rất khó diễn tả... Điều này có lẽ cũng chỉ chợt nhận thức được vào lúc giai điệu tắt. Ví dụ ra đây mấy tuyệt phẩm "ma thuật" kinh điển, rung động sâu thẳm trái tim (lúc nào rảnh có lẽ mình sẽ post thường trực bên lề trang blog này).
Cho Buổi Sáng- bắt đầu một ngày mới:





Buổi Trưa, hãy thử cho mình những phút ngơi nghỉ, thả hồn theo Chopin:


rồi phiêu du thêm chút nữa với Giấc Mơ này:




Buổi Chiều Tà ư, đây bạn này:

và:

                                            

Khi Đêm đến, bạn hãy lắng  nghe:


rồi trước khi vào giấc ngủ, hãy sóng sánh với:



      Thử làm một phép chia với mấy bản nhạc yêu quý, chứ còn rất tương đối... Bởi vì khi đã thực sự muốn nghe, thì dù đó là vào bất cứ thời gian nào của một ngày, bạn hãy mở bất kỳ bản nào kể trên và có thể (hay là tốt nhất?) nhắm mắt lại, ngả mình tựa vào lưng ghế...,  bạn mới thấy mình thực sự đang ở đâu trong không gian và thời gian...

       Thật vui nếu có ai vào đọc bài này, thấy  đồng cảm, để rồi cùng chia sẻ vào đây những bản nhạc, mà lúc này mình quên mất, hoặc mình chưa biết đến.
                                                                                                                  Hoa giấy

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Tượng Balzac

                                                                                                               Lê Đạt
                                                                 Truyện ngắn
                                            Tượng khổng lồ, mộ giấy đá vô danh.
        Có phải đời sống con người quá vất vả, cực nhọc dày vò, nên ai cũng hy vọng, cũng đinh ninh rằng khi chết mình sẽ được yên nghỉ.
        Balzac là một trong số những người đó.
       Ông đã phải làm "mọi" cho đám nhà văn thị trường sản xuất đủ các thứ truyện bá láp mà giới văn học thường gọi chung là "tiểu thuyết của người gác cổng" để sinh nhai.
        Thiên hạ nghĩ rằng chỉ có làm cu ly ba tê mới cực nhọc.
       Viết văn cũng cực nhọc, cũng phu phen chẳng kém gì. Đi khuân vác về, mệt, có thể làm một tợp rượu rồi lăn ra ngủ giấc ngủ của "kẻ công chính," chuẩn bị sức cho ngày hôm sau. Người viết văn không được cái yên ổn ấy... thường sống những đêm ân hận, dằn vặt,... Mình đã bôi bẩn những trang giấy thật trong trắng kia để làm gì? Sao mình lại mài mòn bộ óc, tiêu xài hoang phí những giấc mộng đẹp tuổi trẻ để viết những trang sách mà ngày mai, ngày kia... người ta sẽ vứt vào sọt rác...


        Để đổi lấy những đồng nhuận bút chết đói!l
        Ôi! Cái nghề văn...
       Không ai tính được những đêm thấp thỏm của Balzac, những giấc ngủ hoảng loạn, chập chờn đầy ác mộng, như giấc ngủ một kẻ bất lương.
        Ngay cả khi đã nổi tiếng... và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ XIX... cuộc sống của ông cũng chẳng nhàn nhã vui thú gì. Chưa viết xong một tiểu thuyết đã phải lập tức nghĩ đến cốt một tiểu thuyết khác.
        Balzac suốt đời khao khát một chút điều kiện để có thể viết một tác phẩm văn học "như mình thích." Ôi! ước gì mình có năm trăm nghìn quan... mình sẽ để thời giờ chuốt lại từng câu văn, đẽo gọt từng chi tiết... sửa đi sửa lại cho đến khi không còn sửa được nữa... một kiệt tác, cỡ một bức tượng của Michel Ange... nó sừng sững tồn tại với thời gian và cạnh tranh với quyền lực vô biên của tạo hóa.
       Balzac không phải không kiếm được nhiều tiền... Nhưng ông tiêu còn nhiều hơn. Tiền cho mình, tiền cho bạn... Cho cả đám người không quen biết thường cộng sinh trên lưng những người lương thiện. Và Balzac lại kéo cày, lại phải viết vội... Viết như bổ củi, để đến lúc sửa morát lại dập xóa, lại thêm bớt, làm tình làm tội đám thợ sắp chữ...
       Và giữa tuần trăng mật với người yêu, thành hôn sau hàng chục năm trời xa cách thương nhớ... một nữ bá tước đẹp, trẻ và nhiều tiền ở một nước Nga huyền thoại đầy tuyết trắng, thì Chúa lại bắt ông đi.
        Với hàng tấn trang viết lặc lè thồ trên lưng, làm sao người ta có thể sống lâu được...
       Viết... viết... buồn ngủ lại nốc cà phê... lại đắp nước lạnh vào mặt... để lại viết. Balzac thở dài mệt mỏi. "Tôi chết vì ba vạn tách cà phê..."
        Cái chết của Balzac thật rôm rả. Tang lễ đồ sộ. Có cả vòng hoa của Hoàng Đế Napoléon III lúc đó còn làm tổng thống nước Cộng Hòa. Ngay những kẻ thù của ông cũng viết những lời ai điếu có thể là thành thật. Người chết rồi còn nguy hiểm cho ai nữa. Cả những nhà phê bình bẩn bụng nhất cũng bỏ phiếu suy tôn Balzac làm nhà đại văn hào đầu bảng của thế kỷ XIX.
       Xã hội có thói quen xử đẹp với người đã chết. Đó là một mỹ tục cần duy trì. Nhưng bao giờ thì xã hội tập được thói quen xử đẹp với người còn sống, nó là một đòi hỏi còn cấp thiết hơn và đạo lý hơn. Xóa hộ nhau cái vết chàm mà mấy câu thơ xưa đã in sâu lên mặt nền văn minh vốn mỏng manh của nhân loại.
                    Sống thì chẳng chịu cho ăn
                    Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi
         Người ta hồ hởi nghĩ việc tạc tượng Balzac.
         Nghệ sĩ được giao phó trách nhiệm quang vinh này là một viện sĩ ưu tú- Chapu.
         Phải một người được trọng vọng, một nghệ sĩ có tước hiệu như vậy mới xứng đáng với Balzac.
       Chapu làm việc miệt mài trong sáu năm... Không ai có thể chê trách lương tâm nghề nghiệp của vị viện sĩ này. Mọi việc đương tốt đẹp thì bỗng Chapu lăn đùng ra chết.
       Chẳng lẽ cái số vất vả vẫn đeo đuổi Balzac sang phía bên kia mồ. Cũng may là Chapu đã hoàn thành tượng khuôn bằng thạch cao. Pho tượng thật uy nghiêm và tỷ mỷ, xứng đáng với một đại văn hào. Ai cũng khen đẹp. Có người còn nói "Đẹp hơn cả Balzac lúc sống..." Chapu cẩn thận đến từng chi tiết... kể cả cái nốt ruồi bên má phải nhà văn.
      Chỉ còn việc đúc đồng nữa là xong. Nếu... không có một người phản đối. Một người, nhưng người đó lại là chủ tịch Hội những người viết văn. Điều này cũng quan trọng vừa thôi. Ở nước Pháp thiếu gì hội những người viết văn... và chẳng có ai ăn lương của hội này cả... Nhưng người đó lại là Emile Zola, trưởng môn phái tự nhiên, một nhân vật nổi tiếng trong giới văn lâm đương thời. (Tại Pháp, giới văn lâm còn mạnh hơn giới võ lâm nhiều). Và một lời nói thông minh điểm đúng huyệt có khi còn đánh gục đối thủ ngon hơn một chưởng đặc sản.
      Zola nhận xét: "Pho tượng giống một Balzac chết hơn là một Balzac sống. Chúng ta không nên bắt nhà văn phải chết một lần thứ hai." Và Zola đề nghị mời Rodin, một nhà tạc tượng "trẻ" (mặc dầu đã ngoài ngũ tuần).
      Đề xuất trên không phải không gặp nhiều ý kiến phản đối. Rodin dẫu sao cũng chỉ là một nghệ sĩ trơn, mới nổi. Ông không có bằng cấp và không có đuôi tước hiệu.
      Zola thắng thế, nhưng Rodin phải làm giấy cam đoan sẽ hoàn thành tượng trong 18 tháng.
     Vốn là một độc giả ngưỡng mộ Balzac, Rodin hăm hở bắt tay vào việc. Ông lặn lội về quê nhà văn để tìm hiểu nhân vật... Tài liệu thật đáng nản. Hầu như không có gì ngoài một số tấm ảnh chụp đã mờ. Thời đó nghệ thuật nhiếp ảnh đang chập chững những bước đầu tiên. Và Balzac chẳng có những chiến tích ly kỳ. Tài sản ông để lại chỉ là mấy hòm bản thảo, chữ xấu như ma lem, lại chữa nhằng chữa nhịt tựa những lá bùa phù thủy. Ông chết quá sớm để kịp làm vĩ nhân khi còn sống... để thiên hạ kịp gom góp những kỷ vật về ông.
     Mọi người chỉ thống nhất ở một điểm: Balzac có một hình thể mà giới chuyên môn thường gọi là "bội bạc đối với nghệ thuật điêu khắc. Cái đầu thì to xù. Người thì thấp. Chân thì bé. Như một con nòng nọc."
     Một nhà hội họa đương thời đã nhận xét: "Balzac sinh ra dành cho giới biếm họa hơn là giới họa sĩ chân dung."
     Rodin đã đi khắp vùng tìm những người mẫu. Ông cũng đã moi được một ông thợ may quen của nhà văn hào, lúc đó đã già nhưng vẫn còn nhớ được số đo của người quá cố. Rodin thuê ông may những bộ y phục Balzac ưa mặc lúc sinh thời, khoác lên những người mẫu ở đủ các tư thế. Và Rodin hết ký họa lại phác nặn. Chán phè!
      Hình như những phác thảo càng cố gắng gần với Balzac bằng xương bằng thịt... lại càng xa với hình ảnh Balzac trong đầu của nhà nặn tượng bất hạnh kia...
      Lại xóa, lại dập... Lại thử những người mẫu giống hơn, trong những tư thế ưu đãi hơn.
      Mười tám tháng vèo qua.
      Thiên hạ đã bắt đầu xì xào.
     Và còn người nghệ sĩ kiêu hãnh kia, suốt đời không chịu khuất phục nói khó với ai, phải khẩn khoản, phải vật nài xin gia hạn một năm nữa.
      Rodin lại sục sạo đi tìm người mẫu... lại nặn... lại đập... Và một năm nữa lại đi qua...
      Thế này thì quá lắm!
      Người ta không còn xì xào nữa... Người ta công khai la ó.
     Người ta viết trên báo chỉ trích thái độ vô trách nhiệm, sự lười biếng của người nặn tượng thiếu lương tâm... Một số người trong ban điều hành Hội còn công khai tỏ ý muốn đưa Rodin ra tòa đòi bồi thường vì đã vi phạm hợp đồng. Cuộc cãi cọ được nuôi dưỡng bởi vô số những lá thư quần chúng khắp nơi biểu thị lòng phẫn nộ của những người dân bình thường. Zola phải từ chức. Và Rodin phải ký quỹ 100,000 phrăng để được gia hạn thêm một năm nữa...
     Từ cuộc họp sóng gió trở về tìm sự yên ổn tạm thời trong không khí quen thuộc của xưởng điêu khắc và vòng tay người yêu thì... người yêu đã bỏ đi "vì không thể sống mãi như thế này. Nếu ở lại thì tôi sẽ phát điên mất" - Claude
      Thì cho điên luôn một thể... Rodin đập phá những pho tượng không thương tiếc... Và cái xưởng vốn ấm áp kia bỗng ghê rợn, ngổn ngang xác tượng, chẳng khác gì một huyệt chôn người tập thể.
      Những chuyện nơi riêng tư ấy lập tức được phanh phui trên báo chí. Và một nhà phê bình mỹ thuật nọ còn đoán chắc rằng sẽ không có tượng Balzac vì Rodin sắp phát điên.
       Rodin xa lánh mọi người. Ông lấy một thanh rầm lớn chèn cửa xưởng điêu khắc lại, lầm lũi đi cửa sau.
       Và ông vẫn đi tìm...
      Vào một đêm mất ngủ, Rodin bỗng nhớ tới một nhận xét của nhà thơ Lamartine về Balzac "Hồn nhà văn sung mãn đến mức có thể đỡ cả thân hình nặng nề của ông một cách nhẹ nhàng..."
      Rodin dậm chân: "Đúng là mình ngu lâu thật... mình cứ tìm cách thể hiện phần xác nặng nề của Balzac trong lúc điểm chủ yếu của ông lại là phần hồn..."
       Có lẽ Rodin điên thật rồi... Có ai lại tạc tượng hồn của một người.
      Tượng vốn là một nghệ thuật cụ thể với những hình khối nhìn thấy được, sờ mó được trong những chất liệu rắn như đá, gỗ, kim loại... làm sao có thể tạc được một linh hồn trừu tượng.
      Những ý kiến nghịch lý ấy cứ tra tấn, cứ hành hạ Rodin hoài.
      Biết đâu một nghệ thuật lớn lao lại chẳng ra đời từ những nghịch lý điên rồ ấy.
     Đôi khi Rodin đổ tội cho quá trình tự học của bản thân. Mình đọc linh tinh nhiều thứ quá... Một người được đào tạo chính quy hẳn là tâm hồn sẽ chuẩn mực hơn, đỡ điên loạn hơn...
      Và sẽ yên ổn, sẽ giàu có, sẽ được trọng vọng, kiểu viện sĩ Chapu chẳng hạn... Nhưng để làm gì?
      Làm nghệ thuật, nói như Michel Ange, là ký một hợp đồng với ma quỷ... Một nghệ sĩ ít nhiều như một phù thủy... Non tay ấn quyết có thể bị âm binh quật chết...
      Thì Rodin cũng sắp bị vật chết đây...
     Ông phì cười... Bao nhiêu đêm chập chờn, nửa tỉnh nửa mê, suy nghĩ lan man như vậy...
      Và thời gian cứ trôi qua...
      Rodin xem lại nhật ký sáng tác... Ông chợt lưu ý một chi tiết.
     Hôm đó, khi lục lọi phòng riêng của nhà văn, ông tìm thấy trong một xó tấm áo ngủ Balzac khi sống vẫn thường mặc làm việc, hôi rích và rách nát. Khi rũ ra, gián bay vù vù đến phát khiếp...
     Ừ, tại sao ông lại không tạc tượng Balzac trong chiếc áo ngủ kia. Nó sẽ cho nhà đại văn hào cái khắc khổ của một tu sĩ, cái trang trọng của một hoàng đế La Mã, và cái khổ sai của một tên tội đồ...
     Làm sao Rodin lại có thể quên chi tiết trên được. Ông mua những tấm vải rộng choàng lên người mẫu và thuê thợ lấy thạch cao ướt ném vào vải, hy vọng khi khô nó sẽ tạo thành những nếp áo, những gợn sóng thích hợp...
     Và ông lại vẽ, lại nặn, lại xóa, lại đập,... hàng tháng trời, cho đến khi chọn được tư thế và dạng áo thích hợp- Balzac đứng chụm chân, khoanh tay trước ngực, đầu ngẩng lên nhìn một điểm rất xa.
      Mùa hè năm ấy, ông đem pho tượng đến trưng bầy tại Phòng triển lãm Mỹ thuật sang trọng của thủ đô Paris...
      Chưa đến giờ khai mạc mà giới tao nhân mặc khách, giới quý tộc, trai thanh gái lịch thủ đô đã kéo đến chật ních...
      Rodin mở tấm vải trùm bức tượng... Một tiếng ồ nổi lên trong cử tọa. Giữa ánh sáng đèn chói lọi pho tượng nom mới xù xì, xấu xí, ma quỷ làm sao!
      Đến mức này thì quá lắm... Sau phút sửng sốt là một bùng nổ phẫn nộ... Pho tượng vẫn lù lù ở đó, quái gở, lẫm liệt, lạ lùng, hỗn xược như một thách thức...
      "Đúng là một quái thai ngâm dấm..."
      Bậc mệnh phụ vừa thốt lời nhận xét trên hình như cảm thấy câu nói quá kinh tởm với cái miệng xinh đẹp của mình phải chạy vội vào nhà toa-let.
      "Một con ngợm bất thành nhân dạng..."
     Cơn lũ phản đối dữ dội đến mức Ban điều hành Hội những người viết văn. tập thể đã đặt Rodin làm tượng, phải tức khắc ra một bản công bố với lời lẽ quyết liệt.
     "Chúng tôi hoàn toàn không thấy một chút gì của Balzac trong pho tượng quái gở kia... và đòi hỏi Nhà tạc tượng phải trả lời trước công luận."
      Báo chí sặc mùi đấu tố như những năm 93, 94 dưới thời Robespierre. Ngày nào cũng có đăng những thư phản đối lên án của độc giả từ hang cùng ngõ hẻm nước Pháp.
     "Người ta không thể lạm dụng nghệ thuật để bôi nhọ nước Pháp..."
     "Đó là hành động xúc phạm tổ quốc..."
     Có thư còn đi xa hơn: "Phải xét xem trong dòng máu của Rodin có máu Do Thái không"...
     Một bức thư dài phản đối được đăng chữ lớn trên trang nhất tất cả các báo thủ đô, dưới có ký tên nhiều nhân vật nổi tiếng như Rochefort, Anatole France v.v...
     Điều làm cho chính bản thân Rodin cũng không khỏi động tâm là trong số những nghệ sĩ mà nhà tạc tượng rất kính trọng, như nhạc sĩ Debussy, họa sĩ Lautrec... Một số nhà từ thiện còn đề nghị làm việc công đức quyên tiền mua bức tượng đem đập trước nhà thờ Notre Dame, có Đức tổng giám mục đến làm lễ như trong một lễ trục quỷ thời Trung Cổ...
      Chưa bao giờ Rodin thấy mình cô đơn như lúc này...
      Hình như một mình ông chống chọi với cả nước Pháp...
     Rodin không hiểu rằng đa số muốn tạc tượng một Balzac đã chết, một xác Balzac được thánh hóa để sùng bái...
     Còn bản thân Rodin thì lại muốn tạc tượng một hồn Balzac sống, không ngừng trò chuyện với thời đại, với trời đất...
      Thật là một sự hiểu lầm tai hại...
      Nhiều người quen cũ của Rodin trông thấy ông từ xa bỗng đổi vỉa hè...
      Và thưa thớt đã có lần nhà tạc tượng bị ném đá...
     Rodin phải chọn lúc tối trời để đưa pho tượng về nhà như chôn chui tử thi một kẻ bị trọng tội đáng nguyền rủa hay một bệnh nhân dịch hạch.
     Rodin không cần soi gương cũng biết tóc mình đương bạc với tốc độ của một con tuấn mã phi nước đại.
    Thì ai bảo Rodin dây vào Balzac làm gì... Con người sinh ra với một ngôi sao quả tạ chiếu mệnh... suốt đời thao thức trằn trọc... đến chết cũng không được yên giấc.
     * * *
     Pho tượng Balzac được đặt ở ngoài vườn... Và Rodin cố tình quên nó đi... Cho đến một hôm, một nhà nhiếp ảnh trẻ tuổi người Mỹ, Edward Steichen, đến thăm xưởng điêu khắc vào một đêm sáng trăng, và xin phép được chụp ảnh khu vườn.
      Khi rửa ảnh. Steichen chọn riêng một tấm đưa cho Rodin.
      Pho tượng Balzac lù lù nổi lên giữa cỏ rậm và hoa dại, đẹp một cách kỳ quái.
     Steichen say sưa: "Hệt một thiên thạch." Rodin lẩm bẩm "một thiên thạch...". Ông nhớ ra rồi. Cách đây nửa thế kỷ. một nhà thơ già cũng đã nói đầu Balzac không phải là đầu người... Đó là đầu của một thiên thạch."
      Có phải cái nhìn của nhà thơ càng già càng nhích gần tuổi trẻ không?
     Tại sao ông lại dại dột đem cái đống thu lu ấy đến trưng bày lại một phòng triển lãm xinh đẹp và sang trọng?
     Đêm đó, Rodin lại mất ngủ. Ông lần ra vườn ngắm pho tượng. Nó sừng sững đứng dưới ánh trăng đồ sộ, cô đơn như một mộ đại thạch vùng Bretagne hay những tượng đá khổng lồ vô danh thời tiền sử còn sót lại trên đảo Paques...
     Cầu Chúa nó cũng sẽ sống cuộc đời lâu dài và kỳ lạ của những tác phẩm vô danh kia trong cuộc đối thoại bất tận với Vô Cùng. 

                                                                                                          

Bức tượng tưởng nhớ Honore de Balzac
 

Honoré de Balzac-1897. Auguste Rodin

Hai bài thơ Tống biệt hành

Tống biệt hành

                       Thâm Tâm
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…

- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say…

Mây thu đầu núi, giá lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ngừng ở ven trời nghe tiếng khóc
Tiếng đời xô động, tiếng lòng câm.

1940.

Tống biệt hành
                     Vi Khuê
Ta tưởng ngươi
đi về phương đông
Ta rót cho ngươi
chén rượu hồng
Rượu sẽ mềm môi
ngươi sẽ khóc
Ta cười. Ngươi
có hiểu gì không?

Ta tưởng ngươi
đi về phương tây
Ta rót cho ngươi
chén rượu đầy
Rượu sẽ làm cay
đôi mắt ướt
Ta nhìn, lệ rớt
giữa lòng tay...

Ta tưởng ngươi
đi về phương nam
Ta rót cho ngươi
chén rượu tràn
Rượu sẽ làm hoen
thân áo bạc
Ngươi về. Khật khưỡng
dưới vầng trăng.

Ta tưởng ngươi
đi về phương bắc
Ta rót cho ngươi
chén rượu ngọc
Rượu sẽ vì ta
nói với ngươi
Vĩnh biệt. Đừng
quay nhìn ngõ trúc.

Ta tiễn ngươi! Ôi!
Ta tiễn ngươi
Rừng phong không gió
trời không mây
Hoa đâu. Để
ngát thơm vườn Ngự
Ta tiễn ngươi mà
ta tiễn ngươi!

1991.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Mâu thuẫn

          "Sự tích mâu và thuẫn" có lẽ là bài học vỡ lòng của môn triết học, chẳng ai từng là sinh viên mà không kinh qua. Chuyện rằng có anh thợ rèn, sau khi rèn được những cái mâu (cây xà mâu, cây giáo- có cán dài, mũi nhọn, dùng để đâm) bèn mang đi giao bán khắp nơi rằng: Mâu này của tôi rất tốt, vật gì đâm cũng thủng. Ít lâu sau anh ta lại rèn thuẫn (cái khiên, cái mộc, hình tròn hay bầu dục, dùng để chiến binh che đỡ khi lâm trận) và rao bán rằng: Thuẫn này của tôi rất tốt, không khí giới nào đâm thủng. Thế nên có người bảo anh ta: Lấy mâu của anh mà đâm vào thuẫn của anh thì sao?... Anh ta cứng họng, chứ còn biết nói sao nữa...! Từ đó, "mâu thuẫn" được dùng để ám chỉ những việc trái ngược nhau.
         Hôm nọ mình đọc  đoạn này trên mạng: "Ta hãy suy nghĩ xem, khi ta chúc một bác sĩ ngoài cái an khang thịnh vượng nói chung thì trong thịnh vượng tức là nói đến làm ăn phát đạt, có nghĩa là phải có nhiều người ốm đau thì bác sĩ mới khám bệnh, bán thuốc thì mới làm ăn phát đạt được trong khi ta lại chúc nhau luôn mạnh khỏe? Khi ta chúc một người làm nghề sửa xe cũng vậy, nghĩa là xe bị hư hỏng xe nhiều thì thợ sửa xe mới có việc làm, mới làm ăn khá được. Còn với người bán quan tài thì sao? Chúc họ làm ăn phát đạt có nghĩa là phải có nhiều người chết, họ mới bán được hòm thì mới phát đạt được chứ? Hay ta chúc một người làm nghề giết mổ thì đồng nghĩa với việc ta mong cho anh ta sát sinh thật nhiều gia súc gia cầm thì mới phát tài phát lộc nghĩa là đi vào con đường sát sinh không lối thoát..."- Thấy cũng thú vị đấy! Kể theo cách này thì còn nhiều nghề nghiệp bị động chạm. Tự liên hệ: mình là cô giáo, nếu có được chúc thành đạt, thì chả có mâu thuẫn gì với tiến bộ của học trò cả.
        Không có mâu thuẫn gì sao? Nghĩ thêm một chút, thấy có những mâu thuẫn khác làm mình đôi khi thấy buồn lắm! Dạy học trò của mình trung thực, học đến đâu sẽ được đánh giá đến đấy- đàng hoàng, thực chất... nhưng rồi khi chúng thi cử, và khi chúng vào đời làm việc lại hay phải chịu thua thiệt. Thua thiệt bắt đầu tính ngay từ điểm số bây giờ trong cuốn học bạ, khi mà nhiều học sinh lớp khác có cô thầy "thức thời" hơn mình; Thua thiệt trong công việc sau này vì chúng quen thật thà, ít ma lanh, không mấy xảo thuật... Có cô học trò cũ, kể với mình rằng "Mấy năm học đại học, em chẳng thể quay cóp được, có lần chuẩn bị "phao" rồi mà tay chân cứ run bắn lên, sau thì đành chịu. Chúng nó thì khác cô ạ!" Mình vừa vui vui tự hào, lại vừa buồn buồn, áy náy và lo âu cho trò cũ (tự mâu thuẫn đấy!)  Chỉ được an ủi là một cô học trò cũ khác du học Anh được mấy năm, cả mẹ cả con cứ sung sướng kể rằng "bên đó" họ đánh giá nghiêm, may cháu có ý thức từ ở nhà, sang đó vẫn thuận lợi, được đánh giá xứng đáng lắm cô ạ, thật là may!...
        Không thể phủ nhận là những học sinh suất sắc nhất vẫn có cơ hội thành công. Nhưng đáng ra công bằng thì chỉ cần "hơn" chứ không cần "nhất" mới có nhiều cơ hội- số này mới là thành phần chủ yếu. Mất đi cơ hội đánh giá đúng là mất đi cơ hội chọn người giỏi hơn, mất đi cơ hội được học hay được làm việc ở môi trường tốt cho những người xứng đáng hơn... Xã hội trong nước bây giờ để bon chen được cần nhiều thứ ngoài trình độ học vấn, mà không chỉ là "kỹ năng sống" theo nghĩa tích cực khởi thủy. Bởi thế vẫn biết rằng cần lấy con người là trọng, và mình đã làm đúng bổn phận, nhưng sao vẫn có gì đó thấy bất nhẫn. ..
        
         Phiếm bàn một chút về mâu thuẫn, còn ở đâu và việc gì chẳng có mâu thuẫn ngay nội tại. Mà triết học đấy (chắc là triết học nói chung chứ chẳng riêng triết học Marx-Lenin)- đã khẳng định mâu thuẫn là động lực cho sự phát triển của xã hội kia mà, sao mà thiếu được! Những mâu thuẫn xã hội được đẩy cao đến đâu đó sẽ phải đi đến một sự đổi thay,  xã hội sẽ mang một gương mặt mới... Về cá nhân thì mỗi người hàng ngày vẫn chung sống với các mâu thuẫn của đời mình, và cứ tạm giải quyết được mâu thuẫn này, sẽ lại nảy ra mâu thuẫn khác... Thậm chí có những mâu thuẫn mãi mãi không giải quyết được. Chúng cứ tồn tại song song làm đối trọng nhau thế thôi- như anh chàng thợ rèn nọ vẫn vừa bán mâu, vừa bán thuẫn để kiếm sống. Chứ sao nữa: Có người mua mâu thì ắt có người mua thuẫn, ngược lại  không có mâu thì biết dùng thuẫn vào việc gì...
       Hôm nọ vừa định chép một câu quen thuộc vào phần tự bạch của blog: "Trên đời này không có gì là tuyệt đối cả",  lại chợt nghĩ câu này tự nó đã mâu thuẫn với nó rồi, thôi vậy! Đời đã đầy mâu thuẫn, mình thêm nếm vào làm gì cho mặn...
                                                                                                                   Hoa giấy

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Cái kết có hậu

Nhà văn Phạm Lưu Vũ
NV Phạm Lưu Vũ
                                                                                      Phạm Lưu Vũ.
           Bạn hỏi tôi: Viết truyện ngắn khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ kết. Khó như thế nào? Sau đây là câu chuyện của tôi:
          Chủ nghĩa Xã hội kinh điển có một “tuyệt phẩm” là thời bao cấp. Thời ấy có món phở mậu dịch gọi là phở “không người lái”. Cái này mới thực sự kinh điển. Ấy là bát phở chỉ có bánh phở, nước dùng và mấy cọng hành ngò, tuyệt không một miếng thịt. Vậy nhưng nó vẫn là một món qùa sang trọng và quí hiếm đối với những cái bụng học trò chúng tôi. Mỗi lần trốn học rủ nhau xuống phố huyện, cái cửa hàng mậu dịch với món phở không người lái trứ danh ấy vẫn luôn là một trong những mục tiêu tối quan trọng, gây háo hức nhất cho chuyến đi. Bấy giờ tôi có một chị người cùng làng làm nhân viên trong cửa hàng mậu dịch ấy. Chỉ nội một việc ấy thôi cũng đã là một điều phi thường. Nói không ngoa tý nào, chị là niềm tự hào của cả làng tôi đấy. Đến nỗi mỗi khi ai đó có việc phải xuống phố huyện, trước khi đi thế nào cũng được nghe những lời dặn dò: “cái ấy, con nhà ấy nó làm ở mậu dịch huyện đấy”. Đi rồi thế nào ở làng cũng túm năm tụm ba kháo nhau: “nhà ấy… hôm nay nó xuống phố huyện, chẳng biết có biết lối mà ghé vào chỗ con ấy… ở mậu dịch không…” Khi trở về thì từ đầu làng tới cuối làng, thế nào cũng hết người nọ đến người kia túm lấy mà hỏi đủ thứ chuyện về chị mậu dịch viên quý hóa muôn vàn tình thương mến ấy.
            Có một người làng làm nhân viên ở cửa hàng mậu dịch huyện, có gì phi thường đâu nhỉ, có gì mà cả làng cứ phát rồ lên như thế? Thỉnh thoảng tôi vẫn có cái thắc mắc cỏn con ấy. Vậy mà lắm lúc, chính tôi cũng không khỏi hãnh diện trước đám bạn học về việc có một chị người làng làm trong mậu dịch huyện. Lần nào xuống đó, tôi cũng đem chị ra khoe. Song khổ một nỗi là chẳng lần nào tôi gặp được chị tại đúng cái chỗ thiên đường của những cái bụng rỗng ấy. Tôi đã sắp trở thành một tên khoác lác trong mắt đám bạn thì may quá, lần ấy, tôi thoáng thấy bóng chị phía trong quầy hàng. Mừng quá, tôi vội vàng hét tướng lên gọi chị. Và… niềm tự hào của cả làng tôi (lạy giời) cũng đã kịp nhận ra tôi. Chị quay lại, nhìn tôi nhoẻn cười, lại còn gọi đúng tên tôi ra nữa chứ. Chỉ cần thế thôi. Tôi đã hoàn toàn sung sướng và mãn nguyện, đủ để vênh mặt trước những ánh mắt tin tưởng, nể nang của lũ bạn học.
          Song niềm hạnh phúc vô bờ của tôi không dừng ở đó. Hôm ấy chính chị là người đứng quầy, chế từng bát phở rồi đẩy qua một cái khay nhôm. Chúng tôi xếp hàng đứng bên ngoài quầy, thò tay qua cái lỗ tò vò, trao cho chị miếng tích kê nhỏ làm bằng tôn mua ở trước cửa mậu dịch rồi nhận lấy bát phở bưng ra bàn ngồi ăn. Khi đến lượt tôi, chị tỏ ra ưu ái hơn đối với những người khác là tự tay đẩy một bát phở đến cho tôi. Cảm động quá, thậm chí tôi còn cảm thấy hình như chị nháy mắt với tôi một cái rồi mới nhẹ nhàng quay mặt đi chỗ khác. Bát phở không người lái hôm đó cũng vẫn ngon lành như mọi khi. Tôi đã cố tình ăn thật chậm, cốt kéo dài cái sự sung sướng không mấy khi có được như thế này. Khi ăn đến miếng cuối cùng, tôi bỗng bàng hoàng phát hiện có một miếng thịt được dấu dưới đáy bát phở. Đích thị đây là ân huệ mà chị người làng quý hóa đã dành cho tôi. Tôi đã hiểu cái nháy mắt kín đáo lúc nãy của chị. Cảm động đến đờ người, tôi lặng lẽ quay đầu quan sát xung quanh. Lác đác mấy người nông dân áo bạc, cả đám bạn tôi, ai nấy cũng đều đang cúi đầu sì soạp trước những bát phở không người lái của mình. Không một ai biết cái kết tuyệt vời trong bát phở của tôi, đang hiện hữu ngay trước mặt tôi… Ôi miếng thịt dấu dưới đáy bát phở không người lái…

          Về sau này mỗi khi tập tọe viết truyện ngắn, tôi đều nhủ rằng dù có là một bát phở không người lái, thì cũng nên có cái kết như bát phở kia, nghĩa là cố mà dấu ở dưới đáy, dù chỉ là một mẩu thịt…

                                                                                                                        2012

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

Chiến tranh

                                                                            Truyện ngắn
                                                                                                           Luigi PIRANDELLO
           Những người khách rời khỏi Rome trên chuyến xe lửa tốc hành ban đêm, phải ngừng lại ở một ga nhỏ của tỉnh Fabriano cho đến tảng sáng để tiếp tục lộ trình bằng một chuyến xe lửa đã cũ, nối liền đường sắt chính với tỉnh Sulmona.
           Lúc bình minh đến, nơi một toa hạng hai đầy những khói thuốc ngột ngạt với năm người đã trải qua đêm, một người đàn bà phốp pháp vẻ mặt hết sức phiền muộn đang được dìu lên xe. Trông bà giống như một cái gói lớn kỳ dị. Đi theo sau là người chồng đang than vãn và thở hổn hển, một gã đàn ông gầy gò, khuôn mặt trắng như xác chết, đôi mắt nhỏ và sáng với cái nhìn rụt rè lo ngại. Sau cùng, khi đã tìm được ghế ngồi, ông ta lễ phép cảm ơn những vị khách đã nhường cho vợ ông ta có được một chỗ, rồi quay về phía người đàn bà đang cố gắng kéo cái cổ áo khoác ngoài lên, ông nhẹ nhàng hỏi:
"Em có được thoải mái không?"
           Người vợ, thay vì trả lời, lần nữa lại kéo cao cổ áo lên tới tận mắt để che khuôn mặt lại.
"Thật là một thế giới khó chịu!", người chồng lầm bầm với nụ cười buồn bã. Rồi ông cảm thấy như có bổn phận phải giải thích cho nhóm người chung quanh hiểu rằng vợ ông thật đáng thương bởi vì chiến tranh đã cướp mất đi của bà đứa con độc nhất, một cậu nhỏ hai mươi tuổi đã được họ chăm lo cho cả đời, ngay đến việc thu dọn nhà cửa ở Sulmona để theo cậu lên tận Rome, nơi cậu đang theo đuổi việc học; và rồi chấp nhận cho cậu tình nguyện xung vào quân đội với sự bảo đảm rằng ít nhất là trong tháng đầu, cậu sẽ không bị gửi ra mặt trận. Thế mà giờ đây, thình lình họ nhận được một điện tín báo rằng cậu sẽ lên đường trong ba ngày nữa và cầu xin họ đến để tiễn đưa.
          Người đàn bà dưới cái áo khoác ngoài rộng lớn, cong người vặn vẹo, đôi lúc lại lẩm bẩm giống như một con thú dữ. Bà cảm nhận chắc chắn rằng những lời giải thích của chồng không gợi lên mảy may chút lòng trắc ẩn nào từ những người có lẽ cũng cùng hoàn cảnh như bà. Một ông trong bọn lắng nghe với sự chú ý đặc biệt, đã nói:
"Ông phải cảm ơn Thượng Đế rằng con trai ông bây giờ chỉ mới đi ra tiền tuyến. Con của tôi được gửi đi ngay từ ngày đầu cuộc chiến, hai lần bị thương trở về rồi lại ra trận địa."
"Vậy chứ tôi thì sao? Tôi có hai đứa con trai và ba đứa đứa cháu đang ở ngoài mặt trận", một người khác nói.
"Có thể, nhưng trường hợp của chúng tôi đây lại là đứa con duy nhất", tiếng người chồng liều lĩnh chen vào.
"Điều ấy có khác gì đâu? Ông bạn có thể làm hư đứa con độc nhất bằng sự lưu tâm quá độ của ông bạn, nhưng cũng không thể yêu thương nó nhiều hơn những đứa khác nếu như ông bạn có được. Tình phụ tử không phải là ổ bánh mì để có thể bẻ thành những phần bằng nhau mà chia ra giữa đám trẻ. Một người cha ban phát trọn vẹn tình thương cho từng đứa con, không chút nào phân biệt, dù là một hay mười đứa. Và nếu bây giờ tôi đau khổ cho hai đứa con của tôi thì điều đó không có nghĩa là tôi đau khổ cho mỗi đứa một nửa, mà là gấp đôi."
"Đúng, đúng", người chồng vụng về thở dài, "nhưng giả thử... dĩ nhiên tất cả chúng tôi mong điều ấy không bao giờ là trường hợp xẩy ra cho ông... giả thử một người cha có hai đứa con ở ngoài mặt trận và mất đi một đứa, ông ta sẽ còn lại một đứa để an ủi... Trong khi ..."
"Vâng", người kia ngắt lời, "một cậu con trai còn lại để an ủi ông ta. Nhưng cũng chính vì cậu còn lại đó mà ông ta phải sống lâu hơn. Trong lúc với trường hợp chỉ có một đứa con độc nhất mà nếu nó chết đi, người cha cũng có thể chết theo và chấm dứt sự buồn rầu đau khổ. Vậy trường hợp nào tệ hơn? Ông có thấy rằng trường hợp của tôi tệ hơn của ông không?"
"Vô lý!", một vị khách mập mạp, khuôn mặt và cặp mắt xám đầy những tia máu, cắt lời. Ông ta đang thở hổn hển. Trong đôi mắt lồi dường như toát ra một năng lực dữ dội mà cái thân thể suy yếu của ông khó có thể chứa đựng nổi.
"Vô lý!", ông lập lại, đưa một bàn tay lên che miệng để cố gắng dấu đi hai cái răng cửa bị sún. "Vô lý, có phải chúng ta sinh con ra để làm lợi cho riêng chúng ta không?"
          Những vị khách khác nhìn chòng chọc vào ông lúc ấy dang thở hết hơi. Còn người đàn ông có một đứa con đi ra mặt trận ngay từ ngày đầu cuộc chiến thì lại thở dài:
"Ông bạn nói đúng. Con cái chúng ta không tùy thuộc vào chúng ta mà là tùy thuộc vào tổ quốc."
"Bậy bạ!", người khách mập mạp cãi lại. "Chúng ta có nghĩ đến tổ quốc khi sinh con ra đời không? Tất cả con cái được sinh ra chỉ vì... nào bởi chúng phải được sinh ra, và kể từ khi lọt lòng là chúng đã mang theo cuộc đời riêng của chúng. Đó là một sự thật. Chúng ta tùy thuộc vào chúng, nhưng còn chúng thì chẳng bao giờ tùy thuộc vào chúng ta. Rồi khi hai mươi tuổi, chúng sẽ làm y hệt những gì chúng ta đã làm ở lớp tuổi ấy. Ai trong chúng ta cũng đều có bố mẹ, nhưng cũng lại có nhiều điều khác nữa... con gái, xì gà, ảo tưởng, những mối liên hệ mới, luôn tiếng gọi của tổ quốc mà chúng ta phải đáp lại khi đến tuổi hai mươi, ngay cả lúc cha mẹ bảo là không. Bây giờ ở tuổi này, tình yêu tổ quốc thì vẫn còn rất lớn, nhưng lớn hơn vẫn là tình thương cho con cái chúng ta. Tôi tự hỏi có ai trong đám chúng ta ở đây vui mừng nếu như có điều gì xẩy ra cho con trai mình trên chiến trường?"
           Có một sự im lặng vây phủ và tất cả mọi người đều gật đầu ra vẻ tán thành.
"Vậy thì sao?", người đàn ông mập mạp tiếp, "chúng ta có nghĩ đến những cảm tưởng của con cái khi chúng được hai mươi tuổi không? Và nếu như khi ở vào cái tuổi ấy, chúng nghĩ đến tình yêu cho tổ quốc nhiều hơn tình thương cho cha mẹ thì có phải là một điều không hợp lý? (Dĩ nhiên tôi đang nói tới những thanh niên đàng hoàng.) Rồi có phải là một điều sai lầm chăng khi sau cùng chúng sẽ nhìn đến chúng ta như những đứa bé già nua không thể di chuyển đâu xa ngoài một mái nhà đang trú ẩn? Nếu tổ quốc tồn tại và là một điều tự nhiên cần thiết, giống như bánh mì mà chúng ta phải ăn để không bị chết đói, thì phải có người ra mật trận để phòng vệ nó. Con cái chúng ta là những người làm điều ấy khi chúng được hai mươi tuổi và chúng không muốn bi lụy, bởi vì nếu có chết, chúng sẽ chết trong phấn khởi và sung sướng. (Dĩ nhiên tôi chỉ nói đến những thanh niên gương mẫu đàng hoàng). Nào, bây giờ nếu có một người chết trẻ mà không nhìn thấy mặt trái xấu xa của cuộc đời, không một chút buồn bực khó chịu, không cả nỗi đắng cay tầm thường theo sự tỉnh mộng... thì có điều gì khác hơn mà chúng ta có thể chờ mong nơi họ? Tất cả mọi người phải ngừng khóc lóc và phải cười to lên giống như tôi đã làm... hoặc ít nhất phải cám ơn Thượng Đế -giống như tôi- bởi vì con trai tôi trước khi chết đã nhờ người ta gửi cho tôi một điện tín báo rằng nó chết trong thỏa mãn vì đã chấm dứt cuộc đời trên cái cách tốt nhất mà nó ao ước được có. Đó là điều tại sao mà ngay cả đến việc để tang nó, tôi cũng không làm, như các bạn thấy."
         Ông lắc lắc cái áo khoác màu hung như để phô bày điều vừa nói; làn môi tái mét trên chiếc răng gẫy run run, đôi mắt bất động, đầy lệ. Chẳng mấy chốc sau khi ngừng nói, ông bật tiếng cười lớn nghe giống như tiếng khóc nức nở nhiều hơn.
"Đúng vậy, đúng vậy," những người chung quanh gật đầu đồng ý.

         Ngồi bó lại như cái gói trong góc dưới chiếc áo khoác ngoài, người đàn bà lắng tai nghe. Từ ba tháng qua, với những lời an ủi của chồng và bạn bè để xoa dịu nỗi đau khổ lớn lao trong lòng bà, bà đã cố gắng tìm cho ra điều gì đó khả dĩ biện giải về sự kiện một người mẹ phải đành cam gửi con mình đến một nơi không hẳn là chết, nhưng cũng có thể sẽ nguy hiểm đến tánh mạng của nó. Bà chưa tìm thấy gì giữa các lời đã được thốt... và nỗi đau khổ càng sâu đậm hơn khi thấy chẳng ai -như bà nghĩ-- có thể chia xẻ được cảm xúc với bà.
         Nhưng bây giờ những lời của vị khách kia đã làm bà chưng hửng đến gần như choáng váng. Đột nhiên bà nhận thức rằng không phải những người khác sai lầm hay không thể hiểu bà, mà chính là bà đã không bằng được với các người cha người mẹ đang tự ý cam chịu không khóc lóc trước sự ra đi, và ngay cả trước cái chết của con họ. Bà ngẩng đầu lên, nghiêng người ra khỏi góc và với sự chú ý ghê gớm trên từng chi tiết, bà lắng nghe người đàn ông mập mạp phát biểu về cái cách mà con trai ông đã nằm xuống như một vị anh hùng hy sinh cho tổ quốc. Bà cảm tưởng như đang xẩy chân rơi vào một thế giới mà chưa bao giờ bà mơ tưởng đến, vô cùng xa lạ với sự hiểu biết của bà. Bà cũng rất vui lòng khi nghe tất cả mọi người xúm lại khen ngợi người cha can đảm kia đã dám nói về cái chết của con mình một cách kiên nhẫn như vậy.
       Rồi giống như đã chẳng hề nghe gì trước đó và tựa hồ thức dậy từ sau một giấc mơ, bà quay nhìn về phía người đàn ông mập mạp mà hỏi:
"Thế... có phải là con trai ông đã chết thật rồi?"

        Tất cả mọi người chăm chăm nhìn bà. Người đàn ông kia cũng vậy. Ông quay lại, gắn chặt đôi mắt màu xám nhạt lớn và lồi, đằm đìa những lệ, vào sâu trên khuôn mặt bà. Có một lúc ông ta những muốn trả lời, nhưng tiếng nói đã không thoát được khỏi miệng.
       Ông nhìn bà, rồi lại nhìn bà lần nữa, như thể rằng chỉ vì câu hỏi ngớ ngẩn không hợp lúc kia mà ông bất thần nhận thức ra cuối cùng con trai ông đã chết thật rồi... vĩnh viễn ra đi rồi.. mãi mãi rồi. Khuôn mặt ông co lại và trở nên nhăn nhúm kỳ lạ. Rồi ông vội vàng lôi chiếc khăn tay từ trong túi áo ra, và trước sự kinh ngạc của mọi người, ông òa lên những tiếng khóc nức nở xé lòng không thể kềm giữ.

                                                                                                    Trần Thị Bông Giấy dịch 

Đôi điều về tác giả:  Luigi PIRANDELLO, nhà văn Ý (1867-1936) mà cuộc đời bắt đầu trên quần đảo Sicile, bối cảnh của vài quyển tiểu thuyết của ông. Ông viết rất nhiều, gồm 7 truyện dài; 242 truyện ngắn theo trường phái Tự Nhiên (xuất bản từ 1894 đến 1937); 28 kịch bản. Trong những kịch bản, ông phô bày nhân cách con người bị phân xé ra từng mặt nhỏ với những ý kiến đối nghịch không thể hòa đồng một cách hợp lý. Ngoài ra, ông còn làm thơ và cho xuất bản nhiều thi tập. Năm 1934, ông đoạt giải Nobel văn chương, hai năm trước khi từ giã cõi đời.
40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao CHXHCN Việt Nam- CH Italia (23/3/1973- 23/3/2013)