Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Chuyện Ngưu Lang- Chức Nữ

HG: Gần hết tháng ngâu mới nhớ ra chuyện Ngưu Lang- Chức Nữ. Nhớ thở nhỏ được ba mình dạy một bài hát kể về chuyện này. Chép lại đây theo trí nhớ (tìm trên mạng chẳng thấy tung tích gì): "Những ngày theo lẽ tàn phai/ Những mùa thu gợi nhớ người- Ngưu Lang/ Chăn trâu ấy gã ngang tàng/ Bén duyên khung cửi nên mang ngậm ngùi/ Vì thương lỗi cả lệnh trời/ Cho nên mới phải mỗi người một phương.../ Chàng Ngưu buông tiếng thở dài/ Hận này mang đến kiếp ngàn đời sau/ Cách sông mờ mịt một màu/ Hàng năm chỉ có gặp nhau một lần."

 I. Theo truyện dân gian Việt Nam.
      Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người  người bên này, kẻ bên kia sông Ngân.
      Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu.
      Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.
      Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra. 


II. Theo truyền thuyết của người Trung Hoa.
        Theo truyền thuyết, vào đêm ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch, chàng chăn bò Ngưu Lang và nàng Chức Nữ sẽ đi qua dải Ngân Hà thông qua một cây cầu tạo bởi đàn quạ để tới buổi gặp gỡ chỉ có một lần trong năm. Câu chuyện tình giữa chàng Ngưu Lang và nàng Chức Nữ đã được người Trung Quốc kể lại từ rất lâu. 
        Chức Nữ là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế,  và cô rất khéo léo trong việc dệt nên các mẫu vải đẹp và đầy màu sắc. Khi các bạn nhìn thấy những khung trời sáng lạn và những cầu vồng bảy sắc, nó hẳn là từ đôi tay khéo léo của nàng Chức Nữ.
       Ngưu Lang là một chàng chăn bò vốn sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền nam Trung Quốc. Cha mẹ của anh đã mất khi anh còn rất trẻ, và anh lớn lên với nhiều khổ cực. Anh sống cô độc và chăn bò để kiếm sống. Anh rất trung thực, tử tế và siêng năng, nhưng vì nghèo, anh không thể nào tìm được một người phụ nữ để kết hôn. 
         Một ngày, khi đang chăn bò trên đồng cỏ, Ngưu Lang trông thấy chín tiên nữ hạ xuống bên bờ sông. Anh ẩn nấp phía sau những cái cây và quan sát. Những nàng tiên nữ này trút bỏ xiêm y sặc sỡ của họ, bỏ chúng lại bên bờ sông, và bất đầu chơi đùa trong nước. Ngưu Lang sửng sốt trước vẻ đẹp của họ, đặc biết là nhan sắc của cô trẻ nhất, người đã thu hút cặp mắt của anh.
        Một con bò mà anh đã chăm sóc trong nhiều năm đột nhiết cất giọng nói với Ngưu Lang, “Cô ấy là tiên nữ trên thiên đàng. Nếu anh giấu đi xiêm y của cô ấy, cô ấy sẽ không thể nào trở về được – cô ấy sẽ ở lại và cưới anh.” Con bò bảo anh cái bộ xiêm y nào là thuộc về Chức Nữ.
       Một lúc sau, khi những nàng tiên chuẩn bị rời đi, Chức Nữ bị tụt lại phía sau. Không thể tìm thấy xiêm y của mình, nàng không thể bay về trời. Ngưu Lang đi ra từ sau những cái cây. Anh đưa trả cho Chức Nữ quần áo. Nhưng lúc đó, thời khắc trở về của nàng đã trôi qua.
       Ngưu Lang hỏi cưới Chức Nữ. Trong khi không vui vì anh đã giấu quần áo của mình, nàng thấy rằng Ngưu Lang là một người đàn ông tốt, do vậy nàng đã đồng ý cưới anh.
      Ngưu Lang và Chức Nữ đã sống một cuộc sống hạnh phúc với nhau. Họ hết mực yêu thương nhau, và cả hai đều làm việc rất chăm chỉ. Đôi tay khéo léo của Chức Nữ đã biến túp lều đơn giản của Ngưu Lang thành một căn nhà đẹp và ấm cúng.
      Hai năm trôi qua thật nhanh, và Chức Nữ đã sinh hạ được hai đứa trẻ, một trai và một gái. Hai năm trên mặt đất chỉ là một thoáng trên thiên đàng. Ngay khi những người chị của Chức Nữ trở về thiên đàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã phát hiện ra cô con gái út của ông vắng mặt. Ông sau đó nhìn thấy rằng cô đã cưới một thường nhân ở hạ giới. Ông đã nổi giận, và ra lệnh cho Vương Mẫu dẫn một đội thiên binh để mang Chức Nữ trở về.
       Ở hạ giới, bầu trời đột nhiên trở nên tối đen và gió bắt đầu gào thét. Một lát sau, các thiên binh đã tới và mang Chức Nữ đi.

       Cho dù lo lắng rằng ngày này có thể tới, Ngưu Lang vẫn bị bất ngờ, và sau đó anh trở nên liều lĩnh. Cho mỗi đứa con vào một cái thúng và gánh hai cái thúng trên vai, Ngưu Lang bắt đầu chạy theo những người đã bắt vợ của mình. Khi những thiên binh hạ bay lên thiên đàng, Ngưu Lang cũng phát hiện ra anh đã bay cùng với họ. Anh vội vào nhào tới và khoảng cách giữa anh với người vợ dường như đang thu hẹp lại.

http://khanhly.net/phoxuaklnet/tieutot/pix2/NLCN02.jpg       Vào khoảnh khắc đó, Vương Mẫu đã quẳng chiếc trâm cài đầu bằng vàng xuống trước mặt Ngưu Lang. Cái trâm trở thành một dòng sông bất tận, chia cắt anh với người vợ của mình. Dòng sông này sau đó được biết đến như là dải Ngân Hà.
       Ngưu Lang và nàng tiên nữ nhìn nhau qua dòng sông thần rộng mênh mông; nước mắt ngập tràn, họ đã mong mỏi được sang bờ kia cùng nhau. Cảm động trước tình yêu của họ, những con quạ đã tạo thành một cây cầu bằng thân thể của chúng để bắc qua con sông thần.
      Vương Mẫu nhìn thấy tình yêu mà Chức Nữ và Ngưu Lang giành cho nhau. Bà cho phép họ được gặp nhau một lần mỗi năm, vào buổi tối của cuộc chia ly bắt buộc của họ, ngày mồng 7 tháng 7.
      Trong đêm ngày mồng 7 tháng 7, bạn sẽ thấy rất ít quạ, vì hầu hết chúng đã bay lên để làm nên chiếc cầu thần thánh. Nếu gió lặng và bạn lắng nghe cẩn thận, bạn có thể nghe thấy tiếng thì thầm của Ngưu Lang và Chức Nữ đang biểu lộ tình yêu và nỗi khắc khoải với nhau.

-----------------------------------------------------------------------------------

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/0f/Summer_triangle.png
Sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair) trong "tam giác mùa hè"


Tam giác mùa hè có ba đỉnh là ba ngôi sao sáng nhất trong ba chòm sao

http://u.jimdo.com/www31/o/s2613d7a6f590572b/img/id927d000fe4afb03/1312605665/std/v%C3%A0-%C4%91%C3%A2y-l%C3%A0-h%C3%ACnh-%E1%BA%A3nh-t%C6%B0%E1%BB%9Fng-t%C6%B0%E1%BB%A3ng-v%E1%BB%81-c%C3%A1c-ch%C3%B2m-sao-tam-gi%C3%A1c-m%C3%B9a-h%C3%A8-n%C3%A8.jpg
Hình ảnh tưởng tượng về các chòm sao của Tam giác mùa hè


 HG (bình... loạn): Quả là... quá kính nể trí tưởng tượng siêu phàm của tiền bối về hình dung các chòm sao !!!  :-) Mình lại vốn mù tịt về tranh trừu tượng ... ^^

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Một sứ thần nước Nam: Giang Văn Minh

Bùi Văn Bồng: Nên hiểu kỷ niệm 27/7 không chỉ tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh các liệt sĩ, thương binh từ thời chống Pháp trở lại đây. Phải hiểu rằng chúng ta tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh các anh hùng liệt sĩ, thương binh, những người đã đổ xương máu vì độc lập tự do của tổ quôc trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhân tra cứu các nguồn thông tin tư liệu lịch sử, xin kể câu chuyện về một liệt sĩ, anh hùng đã hy sinh cách đây hơn 400 năm, đó là Giang Văn Minh.
 VINH DANH MỘT SỨ THẦN NƯỚC NAM
                                                                                                                           Tô Văn Trường
  
       Giang Văn Minh sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Giang Văn Minh học giỏi, đỗ đạt cao làm quan Triều Lê, nổi tiếng thanh liêm, cương trực và ứng đối giỏi. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Thám hoa [do không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, nên Giang Văn Minh tuy chỉ là Thám hoa, vẫn là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi – BVN] khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Ở Thái Bình quê tôi, trên tấm bia của chùa Hoa Nghiêm ở thôn Vô Song, xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có ghi  người soạn văn bia năm Dương Hòa thứ 2 (1636) là Phúc Lộc hầu Giang Văn Minh, đỗ thám hoa khoa Mậu Thìn (1628), chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bộc tự khanh. Nơi ông sinh ra ở xã Đường Lâm cũng là quê hương của 2 vị vua nổi tiếng thời xưa là Phùng Hưng-Bố Cái Đại Vương và vua Ngô Quyền.

       Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông được vua Lê cử dẫn đầu đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh [1]. Đến khi triều kiến [2], Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) vừa tìm cách ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê vừa ngạo mạn có ý coi thường Giang Văn Minh và muốn hạ nhục đoàn sứ thần nước Nam nên ra câu đối:
"Đồng trụ chí kim đài dĩ lục!" (Cột đồng đến nay rêu vẫn còn xanh)
      Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ – tức Đại Việt – bị diệt vong) [3].
       Sứ thần nước Nam, Giang Văn Minh bình tĩnh đối lại:
" Đằng giang tự cổ huyết do hồng!" (Sông Bạch Đằng từ lâu máu vẫn đỏ)
Ý nhắc đến việc từ xưa đã nhiều lần người nước Nam chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
      Câu đối lại của Giang Văn Minh thật là hoàn chỉnh, cả ý lẫn từ, lại thể hiện được khí phách hiên ngang anh hùng của dân tộc Việt Nam trước quân xâm lược. Tức giận vì bị làm bẽ mặt, bất chấp phép tắc ngoai giao, vua Minh đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”[4]. Nhưng sau cảm phục khí phách can đảm anh hùng của sứ thần nước Nam, vua Minh cho ướp xác Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân để đưa về quê xã Đường Lâm an táng.

Mộ Sứ thần  Giang Văn Minh ở Đường Lâm
     Hiện nay, ngôi mộ của Giang Văn Minh thường xuyên được du khách đến thăm viếng với lòng biết ơn, kính phục, ngưỡng mộ. Nhân ngày 27/7 chúng ta thành kính nghiêng mình thắp nén hương tưởng nhớ Giang Văn Minh, vị anh hùng liệt sĩ huyền thoại. Chúng ta hãy tưởng niệm hương hồn các liệt sĩ đã cảm tử cho Dân tộc Lạc Việt trường tồn, nhân ngày kỷ niệm thiêng liêng 27/7. 
(...)





---------------------------------------------------------------------

[1] Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.
[2] Năm Dương Hòa năm thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang giao thiệp với nhà Minh. Đoàn sứ bộ đến kinh đô Tàu nhưng bị cản trở, phải nằm chờ ở dịch xá mất gần 1 năm trời. 
[3] Về cột đá này, Lê Tắc khi soạn An Nam chí lược (khoảng đầu thế kỷ XIV) đã có ghi với nội dung: "Xưa có truyền lại rằng: Ở nơi động Cổ Sum, tại Khâm Châu (nay đã thuộc đất Trung Hoa (!))có cái cột đồng của Mã Viện và lời thề rằng: “Hễ cái trụ cột đồng này gãy, thì nước Giao Chỉ diệt”, vì thế, người Giao Chỉ mỗi khi đi ngang qua đều lấy đá, ngói, ném vào dưới chân cột đồng, nên chẳng bao lâu, nơi ấy hóa thành gò…” (An Nam chỉ lược, Sđd, tr.63). Tuy nhiên, do vấn đề nhân thân của Lê Tắc, và nhiều những mâu thuẫn trong quá trình nghiên cứu, những giả thuyết về mục đích Mã Viện dựng cột đồng này cũng như vị trí của nó còn chưa thực sự được xác minh . (Xem thêm ở đây)
[4] Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639).


Đọc thêm

      Vua nhà Minh hôm ấy rất bất bình. Vào ngày khánh thọ nhà vua, các sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Việt Nam là không thấy đâu cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến nơi công quán, đòi sứ giả đến hỏi nguyên do. Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới gắng gượng thất thểu đi theo chúng và triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu trình:
- Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
       Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.
       Vị sứ giả Việt Nam lau nước mắt, ngẩng đầu lên, kiên quyết:
- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...
     Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng chấm dứt vĩnh viễn cái lệ này.



Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Sắp đến ngày 27 tháng 7, tìm đọc...


XIN ĐỪNG GỌI ANH LÀ LIỆT SĨ VÔ DANH
                                    Văn Hiền

Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh có tên như bao khuôn mặt khác
Mẹ sinh anh tròn ngày tròn tháng
Cha đặt tên chọn tuổi, chọn mùa
Anh lớn lên cùng lưỡi cày lưỡi hái
Vẹt mòn dưới nắng, dưới mưa.


Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh từng có tên như bao khuôn mặt khác
Hạt lúa củ khoai nuôi anh khôn lớn
Tháng tám nước trong, tháng năm nắng trải
Bàn chân săn chắc dáng trai...

Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh từng có tên như bao khuôn mặt khác
Ngày lên đường bờ vai mặn chát
Mắt ai vấn vít hàng quân.

Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh có tên như bao khuôn mặt khác
Chiến trường gần, chiến trường xa đuổi giặc
Tên làng, tên đất theo Anh...

Bình yên sau cuộc chiến tranh
Anh trở về không tên không tuổi
Trắng hàng bia những ngôi sao không nói
Rưng rưng cỏ mọc dưới chân.

Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh từng có tên như bao khuôn mặt khác
Tổ quốc không đánh mất tên anh
Chỉ lặng thầm nhận về mình nỗi đau xanh cùng năm tháng.

Tháng 7 năm 1993.


 MÀU HOA ĐỎ
Nguyến Đức Mậu

Có người lính
Mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo
Có người lính
Mùa xuân ấy ra đi từ đó không về

Dòng tên anh khắc vào đá núi
Mây ngàn hoá bóng mây che
Chiều biên cương trắng trời sương núi
Mẹ già mỏi mắt nhìn theo

Việt Nam ơi! Việt Nam!
Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con
Việt Nam ơi! Việt Nam
Ngọn núi nơi anh ngã xuống
Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa
Rực cháy lên màu hoa đỏ phía hoàng hôn


Mười nữ chiến sĩ TNXP A4, B5, C552, Tổng đội TNXP 55 đang 
san lấp hố bom. Ảnh do Hoàng Văn Sắc, phóng viên TTXVN 
chụp 6/1968. Gần 20 ngày sau, 17 giờ 24/7/1968 các chị trở về
 lòng đất Mẹ.
CÚC ƠI...
Yến Thanh

Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ mặt:
Nhỏ - Xuân – Hà – Hường – Hợi – Rạng – Xuân – Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)

Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên lát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em thì xanh
Áo em thì mỏng...

Cúc ơi! Em ở đâu
Về với bọn anh
Tắm nước trong Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn...

Ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi…ời…ơi!

Đồng Lộc, 25/7/1968.


LỜI THỈNH CẦU Ở NGHĨA TRANG ĐỒNG LỘC
 Vương Trọng 
 
- Mười bát nhang hương cắm thế đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành phần cho đất
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp

Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi.



 - Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa!
Ơi các  em tuổi quàng khăn đỏ
Bên bia mộ xếp hàng nghiêm trang quá
Thương các chị lắm phải không, thì hãy quay về
Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi cùng bao vùng đất trống
Các chị nằm còn khát bóng cây che.



 - Hai mươi bảy năm qua chúng tôi không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm lại trở về  Đồng Lộc

Thương chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường.



 - Cần gì ư, lời ai hỏi trong chiều
Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết

Hương chia đều trong hư ảo khói nhang.

                                               
                                                       Đồng Lộc, 05-7-1995





CỎ NON THÀNH CỔ
Nhạc và lời : Tân Huyền 

Cỏ non Thành cổ
một màu xanh non tơ
Bình minh Thành cổ
cỏ mềm theo gió đung đưa 


Cỏ non Thành cổ, một màu xanh non tơ
Nào có ai ngờ nơi đây một thời máu đổ
Người vợ nào, người mẹ nào ngậm ngùi nuốt lệ
khi chồng con không trở về ...

Cho tôi hôm nay vào Thành cổ
thắp một nén nhang viếng người nằm dưới cỏ
Cỏ xanh non tơ, cỏ xanh non tơ xin chớ vô tình
với người hy sinh trên mảnh đất quê mình ...




https://lh3.googleusercontent.com/-pOJj7dl0I6g/Ti-dLX_m6VI/AAAAAAAAFZs/_JQ-iTMVaS4/thach%2Bhan.JPG
"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ 
 Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
       Có tuổi hai mươi thành sóng nước 

 Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm."
                                         Lê Bá Dương

http://farm3.staticflickr.com/2535/4037049133_71f80c4a9d.jpg
Nghĩa trang Đường 9- Nam Lào
--------------------------------------------------------------

HG: Chả tìm được bài thơ nào về sự hy sinh của những người lính năm 1979, ngoài một bài thơ này- nghe thật (...) Và thâm tâm lớn lắm một dấu hỏi.

CHUYỆN VỀ MỘT ĐẠI ĐỘI BỊ BỎ RƠI 
Thái Bá Tân

Tôi mới nghe kể lại
Một câu chuyện đau lòng.
Có thể là chuyện thật,
Cũng có thể là không.

Chuyện kể rằng, lần ấy,
Khi đánh nhau với Tàu,
Quân ta và quân địch

Cách nhau một chiếc cầu.

Bỗng từ trên có lệnh
Một đại đội xung phong
Vượt qua cây cầu ấy,
Sang bờ bên kia sông.

Thế mà lạ, sau đó,
Hai bên đang đánh nhau,
Có lệnh từ trên xuống.
Lần này lệnh phá cầu!

Câu chuyện chỉ có thế.
Một đại đội sang sông,
Rồi phá cầu, theo lệnh...
Nghe mà nhói trong lòng.

Ừ, mà một đại đội
Biên chế bao nhiêu người?
Một trăm, hay năm chục,
Bị đồng đội bỏ rơi?

Có thể là chuyện thật,
Cũng có thể là không.
Sao lòng tôi đau nhói,
Đau nhói mãi trong lòng.

Ai ra cái lệnh ấy,
Lệnh quân ta phá cầu,
Để đồng đội đơn độc
Giữa vòng vây quân Tàu?

Câu chuyện chỉ có thế,
Dù có thật hay không,
Nhưng cả một đại đội
Đã chết bên kia sông.

Hà Nội, 11. 7. 2012.





Thứ Ba, 23 tháng 7, 2013

Một vụ xử án...

HG: Cảm giác kính phục và ngưỡng mộ về những lời trước tòa của bị cáo- một người thầy không chỉ giàu kiến thức, giàu tâm hồn mà còn can đảm biết bao!
Thầy là ai? Sao mình chưa tìm thấy ai nói rõ hơn tên tuổi của Thầy?
--------------------------------------

Vụ xử án một giáo viên dạy văn

Nhà văn Phạm Thị Hoài (trích): Trong đoạn trích sau đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) thuật lại lời đối đáp giữa chánh án và bị cáo ở một vụ xử án mà ông cho là “quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay“. Theo lời kể của ông, “sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh để tòa kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy tác phẩm có tên là "Nỗi cô đơn" [*] (L’Isolement) của nhà văn người Pháp Lamartine“. Vị quan tòa này đồng thời là Tổng Thư kí Đảng Xã hội, phân bộ Hà Nội, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bị cáo là một giảng viên đại học tại Hà Nội, không đi theo kháng chiến. Ông bị tuyên án 4 năm tù. Đó là năm 1954.
(...) 

_____________

Chánh án: Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan, trong khi Đảng Cộng sản của chúng ta được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?

Bị cáo: Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng Cộng sản đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng Cộng sản đã dạy những điều như thế. Ngay cả nếu điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm xúc không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu những thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng Cộng sản, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng Cộng sản. Lời buộc tội duy nhất đưa tôi tới trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vững. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Ngoài ra, tôi sẽ rất vui nếu được biết là dựa trên điều khoản nào của luật pháp, những điều mà chưa bao giờ có, để các ông kết án tôi trước toà?

Chánh án: Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình sự. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô đơn (L’Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã nghe theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản của chúng ta mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự do, Độc lập và Tự hào Dân tộc?

Bị cáo: Thưa ngài, tôi không học luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật Hình sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như ước mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.
Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản, nhưng tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương rởm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, mà làm vũ khí của những người đã bán rẻ lòng tự trọng để chắt mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả đó là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.
Vì vậy tình cảm mơ mộng, một trạng thái của tâm hồn, là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.
Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời sự kết án của ngài. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị Toà án Nhân dân xử mà bước ra khỏi đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng Cộng sản, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng Cộng sản. Nhưng tôi mong mỏi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.

Nguồn: Trích phần II (“Mỏm đá Tarpéienne”), chương 2 (“Ông quan tòa Việt Nam”) trong cuốn hồi kí Kẻ bị mất phép thông công của luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), nguyên bản tiếng Pháp Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel, do Nguyễn Quốc Vỹ dịch và đăng trên Thông luận năm 2009.
---------------------------------------------------------------------------
[*]: Nguyên văn bài thơ và một bản dịch:

L'isolement (Alphonse de Lamartine)
 
Cô đơn (Người dịch: Phạm Nguyên Phẩm)
Souvent sur la montagne, à l'ombre du vieux chêne,
Au coucher du soleil, tristement je m'assieds ;
Je promène au hasard mes regards sur la plaine,
Dont le tableau changeant se déroule à mes pieds.

Ici gronde le fleuve aux vagues écumantes ;
Il serpente, et s'enfonce en un lointain obscur ;
Là le lac immobile étend ses eaux dormantes
Où l'étoile du soir se lève dans l'azur.

Au sommet de ces monts couronnés de bois sombres,
Le crépuscule encor jette un dernier rayon ;
Et le char vaporeux de la reine des ombres
Monte, et blanchit déjà les bords de l'horizon.

Cependant, s'élançant de la flèche gothique,
Un son religieux se répand dans les airs :
Le voyageur s'arrête, et la cloche rustique
Aux derniers bruits du jour mêle de saints concerts.

Mais à ces doux tableaux mon âme indifférente
N'éprouve devant eux ni charme ni transports ;
Je contemple la terre ainsi qu'une ombre errante
Le soleil des vivants n'échauffe plus les morts.

De colline en colline en vain portant ma vue,
Du sud à l'aquilon, de l'aurore au couchant,
Je parcours tous les points de l'immense étendue,
Et je dis : " Nulle part le bonheur ne m'attend. "

Que me font ces vallons, ces palais, ces chaumières,
Vains objets dont pour moi le charme est envolé ?
Fleuves, rochers, forêts, solitudes si chères,
Un seul être vous manque, et tout est dépeuplé !

Que le tour du soleil ou commence ou s'achève,
D'un oeil indifférent je le suis dans son cours ;
En un ciel sombre ou pur qu'il se couche ou se lève,
Qu'importe le soleil ? je n'attends rien des jours.

Quand je pourrais le suivre en sa vaste carrière,
Mes yeux verraient partout le vide et les déserts :
Je ne désire rien de tout ce qu'il éclaire;
Je ne demande rien à l'immense univers.

Mais peut-être au-delà des bornes de sa sphère,
Lieux où le vrai soleil éclaire d'autres cieux,
Si je pouvais laisser ma dépouille à la terre,
Ce que j'ai tant rêvé paraîtrait à mes yeux !

Là, je m'enivrerais à la source où j'aspire ;
Là, je retrouverais et l'espoir et l'amour,
Et ce bien idéal que toute âme désire,
Et qui n'a pas de nom au terrestre séjour !

Que ne puîs-je, porté sur le char de l'Aurore,
Vague objet de mes voeux, m'élancer jusqu'à toi !
Sur la terre d'exil pourquoi resté-je encore ?
Il n'est rien de commun entre la terre et moi.

Quand là feuille des bois tombe dans la prairie,
Le vent du soir s'élève et l'arrache aux vallons ;
Et moi, je suis semblable à la feuille flétrie :
Emportez-moi comme elle, orageux aquilons !
Hoàng hôn xuống tôi thường hay lên núi
Lòng buồn buồn ngồi dưới bóng hàng cây
Chợt đưa mắt nhìn trải dài phía trước
Cánh đồng quê đang đổi sắc thay màu

Đây dòng sông, sóng ầm ầm tung bọt
Lượn quanh co, khuất nẻo tối mù xa
Kia hồ lặng, từ mặt nước bao la
Sao hôm mọc trên nền trời xanh biếc

Ánh tà dương muộn màng từ từ lặn
Trải non cao in rợp bóng hàng cây
Chúa cung Thiềm ngự giá xe mây
Đang xuất hiện ở chân trời nhuốm bạc

Từ tháp nhà thờ chuông ngân thánh thót
Khách lữ hành dừng bước trầm ngâm
Trong yên tĩnh nhạc thánh thót hoà âm
Cùng những tiếng của ngày tàn sắp tắt

Cảnh êm đềm như bày ra trước mắt
Tôi dửng dưng chẳng một chút say mê
Mặt đất với tôi như bóng kéo lê thê
Vầng nhật dương không sưởi người đã thác

Tôi vô vọng nhìn núi đồi khắp lượt
Hết Đông, Đoài rồi từ Bắc đến Nam
Nhìn mọi nơi, khắp mọi chốn không gian
Lòng tự nhủ: không nơi nào hạnh phúc

Giúp gì ta, hỡi cảnh vật tiêu điều?
Hỡi núi, rừng, sông tĩnh mặc mến yêu
Vắng một bóng mà đất trời yên lặng
Hoa lá, cỏ cây cũng cảm nhận nỗi buồn

Mặt trời mọc hay mặt trời đang tắt
Tôi dửng dưng theo vầng nhật vần xoay
Sớm hay chiều, âm u hay trong lại
Đều vô nghĩa, tôi chẳng cần ánh sáng

Dù theo dõi vầng dương luôn chuyển động
Trong tôi chỉ sa mạc với hư vô
Tôi chẳng mong điều ánh sáng đem lại
Chẳng cầu xin nơi vũ trụ bao la

Rất có thể bên kia bờ cầu lửa
Mặt trời đích thực chiếu sáng Thiên Đàng
Nếu có thể gửi thân nơi cõi thế
Điều mong chờ sẽ xuất hiện với ta

Ở nơi đây tôi sẽ say niềm ước
Thấy lại niềm hy vọng với tình yêu
Và điều mong điều ước của bao người
Không tên gọi ở nơi trần thế

Trên xa giá Bình Minh, ta có thể
Bay tới điều ảo vọng bấy lâu nay
Cớ làm sao còn đày đoạ nơi này
Nơi trần gian ta còn đâu ràng buộc?

Khi lá rừng rơi trên đồng cỏ
Gió chiều lên, cuốn lá khỏi lòng thung
Còn ta đây, như lá úa còn vương
Hỡi giông tố, cuốn ta bay như lá!

Không đề 4

Đọc tin bài, nhìn những bức ảnh nhà báo chụp mà đau thắt cả ruột, đến nỗi đã định đăng lên mà lại gỡ xuống... Tự nhủ đọc thế là nhiều rồi, còn mang về làm gì- để cứ phải nhìn thấy mãi?!
 ... Nhưng nếu không viết ra câu nào, cũng không chịu được...

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

Mùa hè rớt



MÙA HÈ RỚT
                                                                   Olga Berggoltz
                                                           Có một mùa trong ánh sáng diệu kỳ
                                                           Cái nắng êm ru, màu trời không chói
                                                           Mùa hè rớt - cho những người yếu đuối
                                                           Cứ ngỡ ngàng như mới bắt đầu  xuân.

                                                            Trên má, mơ hồ tơ nhện bay giăng
                                                            Khe khẽ như không, nhẹ nhàng, phơ phất
                                                            Lanh lảnh bầy chim bay đi muộn nhất
                                                            Hoa cuối mùa sặc sỡ đến lo âu...

                                                            Những trận mưa rào đã tắt từ lâu
                                                            Tất cả thấm trong cánh đồng lặng sẫm...
                                                            Hạnh phúc - hiếm hơn khoé nhìn say đắm
                                                            Ghen tuông - dù chua chát cũng thưa hơn.

                                                            Ôi cái mùa đại lượng rất thân thương
                                                            Ta tiếp nhận, vì ngươi sâu sắc quá
                                                            Nhưng ta nhớ, trời ơi, ta vẫn nhớ
                                                            Tình yêu đâu?... Rừng lặng, bóng sao im...

                                                            Sao ơi sao, sao sắp rụng vào đêm
                                                            Ta biết lắm, thời gian đang vĩnn biệt...
                                                            Nhưng chỉ mãi bây giờ, ta mới biết
                                                            Yêu đương, giận hờn, tha thứ, chia tay.

                                       Bằng Việt (dịch)



 http://phungkon1.files.wordpress.com/2011/07/1311436555157648.jpeg?w=426&h=520




 Olga Berggoltz (1910- 1975)
Бабье лето
                                               
             Есть время природы особого света,
             неяркого солнца, нежнейшего зноя.
             Оно называется
                          бабье лето
             и в прелести спорит с самою весною.
 
             Уже на лицо осторожно садится
             летучая, легкая паутина…
             Как звонко поют запоздалые птицы!
             Как пышно и грозно пылают куртины!

             Давно отгремели могучие ливни,
             все отдано тихой и темною нивой…
             Все чаще от взгляда бываю счастливой,
             все реже и горше бываю ревнивой.
            
             О мудрость щедрейшего бабьего лета,
             с отрадой тебя принимаю… И все же,
                                                                               любовь моя, где ты, аукнемся, где ты?
                                                                               А рощи безмолвны, а звезды все строже…


                                                                               Вот видишь—проходит пора звездопада,
                                                                               и, кажется, время навек разлучаться…
                                                                               …А я лишь теперь понимаю, как надо
                                                                               любить, и жалеть, и прощать, и прощаться.

HG: Chán quá, bài hát "Mùa hè rớt" mà HG thích nhất (trong rất nhiều bài hát Nga cùng tên) thì ca sĩ với nhạc sĩ giữ bản quyền, không còn được tải thoải mái trên Youtube nữa rồi!!!  :((.  Đành dán một đường dẫn vào đây : Бабье лето- Мария Пахоменко
 

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

Chuyện Bá Nha- Tử Kỳ

                                                                                             Truyện ngắn
                                                                                                                       (Khuyết danh)

http://vietnamese.cri.cn/mmsource/images/2012/12/04/0d1bb711aba848888ee45448a7e791ff.jpg

                                Tử Kỳ di hận thân tiên khứ
Bá Nha suất cầm tạ tri âm
     
      Thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại kinh đô, nước Sở (nay thuộc về phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng) có một người danh sĩ họ Du tên Thụy, hiệu là Bá Nha.
       Bá Nha tuy người nước Sở, nhưng lại làm quan nước Tấn đến bực Thượng đại phu. Tấn và Sở thời đó hai nước giao hảo nhau.
       Một hôm Bá Nha phụng mệnh vua Tấn sang nước Sở để gắn liền giây thân hữu giữa hai nước cho bền vững thêm. 
        Bá Nha được vua nước Sở trọng đãi, truyền bày yến tiệc đãi đằng rất hậu.
       Tuy nhiên, Bá Nha không lấy thế làm vui, vì đã bao năm xa cách đất tổ quê hương, nay lại được trở về, tấm lòng nhung nhớ những kỷ niệm thân yêu xa xưa lâng lâng tâm não. Từ mái gia đình đến những cây tòng, cây bá, mới ngày nào mà nay đã vừa một người ôm... Cái định luật biến chuyển không ngừng đã phủ một màu tang trên dòng đời xa cũ.
       Sau các yến tiệc, Bá Nha đi thăm viếng mộ phần, họ hàng, bè bạn, tấm lòng quyến luyến quê hương càng thấy thiết tha hơn lúc nào hết.
        Nhưng vì nhiệm vụ chưa thành, Bá Nha không dám vì thế mà lưu lại nơi đất tổ, phải đành vào triều để từ giã quốc vương trở về nước Tấn.
        Vua Sở ban khen rất nhiều vàng bạc, lụa là, gấm vóc, và truyền đem ra một chiếc thuyền rất lớn để đưa Bá Nha về nước.
        Bá Nha là một khách phong lưu, lỗi lạc, trong tâm hồn chứa đựng nguồn tình cảm thanh cao, coi cảnh vật thiên nhiên như một món ăn tinh thần bất tận.
       Một hôm, thuyền đến cửa sông Hán Dương, gặp lúc trăng thu vằng vặc, trời rộng sao thưa, Bá Nha truyền cắm thuyền dưới chân núi để vui với cảnh đẹp hải hồ. Mặt nước sông lúc bấy giờ trong vắt như miếng thủy tinh, gió lộng trăng ngàn bập bềnh sóng vỗ. Bá Nha truyền cho đồng tử đốt lư trầm và lấy túi đàn đặt lên trước án.
        Bá Nha mở túi gấm, nâng cây Dao cầm đặt ngay ngắn rồi thử dây.
        Hơi trầm quyện gió, réo rắt đưa tiếng đàn vút tận trên không.
       Trong lúc đang hứng thú, bỗng tơ đồng đứt mất một dây, Bá Nha thất kinh tự nghĩ : “Dây đàn đứt ắt có người quân tử đang nghe nhạc đâu đây.” Bèn truyền tả hữu lên bờ xem thử kẻ nào đã nghe đàn mà không ra mặt. Tả hữu vâng lệnh vừa toan bước vào bờ, thì từ bên trên có tiếng người nói vọng xuống:
— Xin Đại nhân chớ lấy làm lạ, vì kẻ tiểu dân kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây nghe tiếng đàn tuyệt diệu nên chân bước không đành đó thôi!
       Bá Nha vừa cười vừa nói :
— Người tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn trước mặt ta, thật là kẻ cuồng vọng! Nhưng thôi, hãy cho hắn đi!
      Từ bên trên lại có tiếng vọng xuống đáp :
— Đại nhân nói như thế là sai! Đại nhân nghe câu : “Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín” đó sao ? (Trong cái ấp mười nhà ắt có người trung tín). Trong nhà có người quân tử ở thì ngoài cửa có người quân tử đến. Vả lại nếu Đại nhân khinh rằng trong chốn núi non quê mùa không có người biết nghe nhạc, thì tiếng đàn tuyệt diệu của Đại nhân cũng không nên gảy lên ở đây làm gì!
      Nghe câu trả lời ấy Bá Nha hơi ngượng, biết mình đã lỡ lời, liền vội vã bước ra trước mũi thuyền hỏi :
— Nếu kẻ trên bờ quả thật là một người biết nghe đàn thì đây ta hỏi thử, vậy chớ ta vừa khảy khúc gì đó?
      Giọng nói trên bờ vẫn bình thản vọng xuống :
— Đó là khúc “Khổng Vọng Vi” than cái chết của Nhan Hồi, nhưng vì bị đứt dây nên mất một câu chót. Khúc ấy như vầy :
Khả tích Nhan Hồi mệnh tảo vương
Giáo nhân tư tưởng mấn như sương
Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc
Còn khúc chót như vầy :
Lưu đắc hiền danh vạn cổ cương
(Dịch :
Nhan Hồi mất sớm thật đau thương,
Tư tưởng dạy người tóc bạc sương
Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm
Danh hiền lưu mãi cõi trần dương.
[1])

       Bá Nha nghe xong lòng mình phấp phới, vội vã sai kẻ tùy tùng bắc cầu lên bờ để triệu thỉnh người lạ mặt xuống thuyền tâm sự.
       Bọn đầy tớ tuân lệnh, song bọn này là những đứa phàm tục, những con mắt thịt ấy đâu phân biệt được kẻ quà người hiền. Chúng quen thói xua bợ, hễ thấy người sang trọng thì thưa bẩm, thấy kẻ nghèo khó thì khinh khi... Thấy chủ mình sai đòi một người tiều phu nón lá, áo vải, tay cầm đòn gánh, lưng giắt búa cùn, chân đi giày cỏ, chúng lên mặt hống hách, nạt nộ :
— Hãy đi xuống thuyền ngay, và phải giữ lễ! Hễ thấy lão gia phải sụp lạy, lão gia có hỏi gì thì phải lựa lời mà nói kẻo mất đầu đó !
     Người tiều phu vẫn thản nhiên như không nghe lời nói của chúng, từ từ bước xuống thuyền, bỏ đòn gánh và chiếc búa cùn nơi mũi thuyền, rồi bước vào yết kiến Bá Nha.
       Trông thấy Bá Nha, người tiều phu chỉ xá dài mà không lạy.
       Bá Nha thấy thế cũng ngạc nhiên, song cũng đưa tay chào đón, nói :
— Thôi, xin quà hữu miễn lễ cho!
      Rồi như muốn thử tài năng người tiều phu xem thực chất đến đâu, Bá Nha sai đồng tử nhắc ghế mời tiều phu ngồi lại bên mình và hỏi :
— Hiền hữu biết nghe đàn chắc là biết ai chế ra cây Dao cầm, và biết chơi đàn có những thú gì chớ?
       Gã tiều phu mỉm cười đáp :
— Đại nhân đã hỏi đến, chẳng lẽ tiểu dân không nói ra những cái mình biết. Xưa kia vua Phục Hy thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng, và chim Phượng Hoàng đến đó đậu, nhà vua biết ngô đồng là thứ gỗ quà, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng nó chế làm nhạc khí được, liền sai người hạ xuống cắt làm ba đoạn. Đoạn ngọn tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được. Vua bèn đem ngâm nơi giữa dòng nước chảy bảy mươi hai ngày, đoạn đem phơi trong mát chờ cho thật khô, lựa tay thợ khéo là Lưu Tử Kỳ chế thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước, sáu tấc, một phân, án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết; mặt sau rộng bốn tấc, án theo bốn mùa; bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi. Đàn ấy gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong một năm, lại có một phím nữa, tượng trưng cho tháng nhuận, trên mắc năm dây án theo ngũ hành, trong tượng ngũ âm: cung, thương, dốc, vũ, chủy. Trước kia vua Thuấn khảy đàn ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Châu Văn Vương ở tù Dũ Là, Bá ấp Khảo thương nhớ, thêm một dây oán gọi là dây văn huyền (dây văn). Lúc Vũ Vương đánh vua Trụ, trước ca, sau múa thêm một dây phấn kích để phấn khởi gọi là dây vũ huyền (dây vũ). Như vậy trước kia có năm dây, sau thêm hai dây nữa là thất huyền cầm. Đàn ấy có sáu “kỵ” và bảy “không”. Sáu “kỵ” là kỵ rét lớn, nắng lớn, gió lớn, tuyết rơi lớn; gặp lúc ấy người ta không dùng, còn bảy “không” là không đàn đám tang, không đàn trong lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong lúc bận rộn, không đàn trong lúc thân thể không sạch, không đàn trong lúc y quan không tề chỉnh, không đàn trong lúc không đốt lò hương, không đàn trong lúc không gặp tri âm. Lại còn có thêm tám “tuyệt” là : thanh, kỳ, u, nhã, li, tráng, lu, trường. Trong tám tuyệt ấy gợi đủ cả các tình cảm, vì vậy tiếng đàn có thể đi đến tuyệt vời vậy.
       Bá Nha nghe nói biết người tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính trọng hỏi:
— Hiền hữu quả là một người tinh thông nhạc là. Trước kia Khổng Tử đang gảy đàn, Nhan Hồi bước vào thoảng nghe có tiếng u trầm, biết lòng Khổng Tử có à tham sát, nên lấy làm lạ hỏi ra mới biết Khổng Tử đang đàn, thấy một con mèo bắt chuột nên à niệm ấy xuất lộ ra tiếng tơ đồng. Vậy thì trước kia Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết lòng người, còn hiền hữu ngày nay nghe ta đàn có biết lòng ta đang tư lự gì chăng?
      
http://admins.lnzx.gov.cn/FileManage/Image/2008-6/08062223063740825.jpg Người tiều phu đáp :
— Xin Đại nhân cứ khảy cho tôi nghe một khúc, nếu may ra có cảm thông được thì đó cũng là điều may mắn.
      Bá Nha nối dây đàn, gảy khúc “à tại non cao”.
      Tiều phu mỉm cười nói :
— Tuyệt thay! à chí cao vút ! à tại non cao…
       Bá Nha nghe nói ngưng đàn, lấy lại tâm hồn gảy thêm khúc : “à tại lưu thủy”.
       Tiều phu cũng cười và nói :
— Bao la trời nước, thật là một khúc: à tại lưu thủy ! tuyệt hay !
       Thấy tiều phu biết rõ lòng mình, Bá Nha thất kinh, khâm phục khôn cùng, mời người tiều phu ngồi lên trên, khiến kẻ tả hữu dâng trà, rồi bày tiệc rượu hai người đối ẩm.
       Trong lúc uống rượu, Bá Nha cung kính, chắp tay hỏi :
— Dám hỏi tiên sinh, quà danh và quà quán ?
        Người tiều phu cũng đứng lên đáp lễ, rồi nói :
— Tiểu dân họ Cung tên Tử Kỳ, ngụ tại thôn Tập Hiền gần núi Nhã Yến. Còn Đại nhân chẳng hay cao danh, quà tánh, và hiền trấn nhận nơi nào ?
       Bá Nha kính cẩn đáp :
— Tiện quan họ Du tên Thụy, tự Bá Nha, nhân vì có công vụ nên đến nơi này. Xét mình tài hèn đức thiếu không xứng đáng với lộc nước ơn vua, còn tiên sinh tài năng xuất chúng, học vấn cao siêu, lẽ ra phải xuất thân đoạt lấy công danh, phò vua giúp nước, lưu danh muôn thuở.. Sao tiên sinh lại cam ẩn dật nơi chốn núi non này mà làm gì?
      Tử Kỳ nói :
— Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo đến chữ hiếu, dẫu cho công hầu bá tước cũng không thể đổi lấy một ngày hiếu dưỡng của tôi được.
—À ! Ra tiên sinh là người chí hiếu, trong đời khó có ai mà sánh kịp như vậy. Chẳng hay tiên sinh năm nay được bao nhiêu tuổi ?
     Tử Kỳ đáp :
— Tiểu dân hai mươi bảy tuổi.
     Bá Nha vồn vã nói :
— Tiện quan hơn tiên sinh một tuần (mười tuổi), nếu tiên sinh không chê đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ cái nghĩa tri âm mà đời tôi chưa từng được gặp.
     Tử Kỳ khiêm nhường đáp :
— Thưa Đại nhân, Đại nhân là một bậc công khanh thượng quốc, còn tôi là kẻ áo vải quê mùa, năm tháng ra vào nơi sơn lâm cùng cốc, đâu dám cùng với đại quan so vai, kết bạn, xin đại quan miễn cho.
       Bá Nha nghe Tử Kỳ nói vậy, lòng bồi hồi mặt buồn rười rượi năn nỉ :
— Giá trị con người không phải ở chỗ giàu sang phú quý, mà là chỗ đức hạnh tài năng. Nay nếu tiên sinh chịu nhận làm anh em với tôi thì thực là vạn hạnh. Còn như giàu nghèo, sang hèn, chúng ta không nên nói tới.
       Nói xong Bá Nha sai kẻ tả hữu gây lại lò hương, rồi cùng Tử Kỳ lạy tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ.
       Bá Nha lớn tuổi hơn, làm anh. Hai người vui vẻ ngồi kề nhau đối ẩm. Nỗi lòng tâm sự của một khách phong trần với một người chung đỉnh được hoàn toàn cởi mở vượt qua những cái giả dối đê hèn của cuộc sống loài người, để trở lại với cái thiên chân thuần túy.
       Hai người chuyện trò mãi mà không biết chán. Đến khi ánh trăng đã lạt màu, sao trên trời chỉ còn sót lại một vài đốm trắng, tiếng gà eo óc đầu thôn giục bóng bình minh, hai người vẫn còn như đắm say trong tình giao cảm, quên hẳn cả thời gian.
       Khi tên thủy thủ đến gần xin lệnh cho thuyền lên đường, Tử Kỳ đứng dậy cáo biệt.
       Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ nói :
— Lòng tôi quá cảm mộ, chưa nỡ rời hiền đệ, vậy mời hiền đệ cùng đi với tôi qua một đoạn đường, để du sơn du thủy và trò chuyện cùng nhau cho cạn mối tâm tình.
       Tử Kỳ bùi ngùi đáp :
— Lẽ ra tiểu đệ phải đưa tiễn hiền huynh vài dặm mới phải, ngặt vì cha mẹ của tiểu đệ ở nhà đang trông, xin hiền huynh thứ lỗi.
      Bá Nha nói :
— Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua Tấn Dương thăm chơi, chắc bá phụ và bá mẫu cũng không nỡ từ chối.
       Tử Kỳ nói với giọng luyến tiếc :
— Tiểu đệ không dám phụ lời hiền huynh, song việc này không dám hứa chắc. Vì vạn nhất, nếu tiểu đệ không xin phép được thung đường thì thành ra thất hứa với hiền huynh, ấy là tội của tiểu đệ rất lớn!
      Cảm lòng hiếu thảo của Tử Kỳ, Bá Nha nói :
— Hiền đệ thực là một bậc quân tử. Nếu vậy thì thôi để tôi sẽ tìm cách đến thăm tiểu đệ.
      Tử Kỳ hỏi :
— Bao giờ hiền huynh sẽ ghé lại thăm tiểu đệ ?
      Bá Nha tính đốt tay một lúc rồi nói :
— Sang năm, cũng đúng vào ngày này.
       Tử Kỳ nói :
— Nếu vậy thì sang năm cũng đúng vào ngày này tiểu đệ xin đợi hiền huynh nơi gành đá.
       Tử Kỳ nói xong, toan cáo biệt, Bá Nha giữ lại, và nói :
— Hãy khoan, hiền đệ thư thả một chút đã!
       Dứt lời, Bá Nha quay lại sai đồng tử lấy ra hai nén vàng ròng, rồi hai tay nâng cao lên trước mặt, nói :
— Đây là món lễ mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ và bá mẫu. Tấm tình cốt nhục, hiền đệ chớ nên chối từ.
     Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không dám từ chối, nghẹn ngào cầm hai nén vàng, lệ tràn khóe mắt, bùi ngùi ra đi. Bá Nha tiễn đến đầu thuyền nắm tay Tử Kỳ không nỡ rời.
      Xưa nay có cuộc chia ly nào mà không ngậm ngùi giữa kẻ ở, người đi, huống chi tình bạn tâm giao. Nỗi lòng chưa cạn, Bá Nha cứ nhìn theo, nhìn mãi cho đến lúc Tử Kỳ đi khuất mới cho nhổ neo.
       Dọc đường Bá Nha lâng lâng nhớ tiếc, đăm đăm đôi mắt về một phương trời, nên mặc dầu trời trong gió mát, cảnh đẹp muôn vàn mà đối với Bá Nha lúc ấy như thờ ơ lạnh nhạt.
       Về đến kinh đô, Bá Nha vào yết kiến vua Tấn để nhận lấy những lời ban khen của cửu trùng.

… Thời gian lặng lẽ trôi như một dòng sông êm ả…

       Mới ngày nào, gió thu rào rạc tiếng sáo biệt ly còn văng vẳng bên tai, thế mà thoắt đã một năm qua. Ngọn gió heo may từ miền Bắc cực thổi về báo hiệu lại một mùa thu nữa đến…
       Bá Nha nhớ lại ngày mình ước hẹn, vội vã vào triều xin vua Tấn cho nghỉ phép về Sở thăm nhà.
       Vua Tấn nhận lời. Bá Nha sửa soạn cây đàn, đem vài tên đồng tử rồi lặng lẽ xuống thuyền ra đi…
       Khi đến Hán Dương, vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút.
      Bọn thủy thủ vào báo cho Bá Nha biết thuyền đã đến núi Mã Yên. Bá Nha lập tức ra đứng nơi mũi thuyền xem cùng bốn phía, nhận ra nơi đây, quả là nơi đã gặp Tử Kỳ năm trước.
       Sau khi hạ lệnh cắm thuyền, Bá Nha vẫn đứng trông về phía núi Mã Yên, đỉnh núi cao hun hút, mịt mờ trong màn sương xám của hoàng hôn gợi lên một cái gì xa vắng.
       Bá Nha nghĩ bụng :
— Năm ngoái vì tiếng đàn mà gặp được tri âm, năm nay ta đàn một khúc nhạc nữa hẳn Tử Kỳ nghe tiếng phải lần đến.
       Tối hôm ấy, Bá Nha sai tiểu đồng lấy cây Dao cầm ra, đốt lò hương vặn phím, đem hết tinh thần nhớ nhung xây thành một khúc nhạc tâm tư. Khi đang đàn bỗng thấy trong tiếng đàn mình có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha thất kinh, dừng tay lại, suy nghĩ : “Cung thương có tiếng ai oán thê thảm như thế, hẳn Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi. Sáng mai ta phải lên bờ dò hỏi mới được”.
       Đêm ấy, Bá Nha nằm thổn thức với ngọn đèn mờ, suốt canh trường không chợp mắt. Nỗi lòng nhớ nhung bồi hồi rào rạt dâng lên như nhịp sóng trầm bất tận của mặt tràng giang.
      Trời chưa sáng, Bá Nha đã truyền cho đồng tử theo mình lên bờ, đem theo cây đàn và mười thẻ vàng, nhắm chân núi Mã Yên thẳng tới.
       Ra khỏi triền núi, hai bên cây cối um tùm, và có mấy con đường băng ngang rất lớn. Bá Nha không biết đi con đường nào, bèn ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, đợi có người nào đi ngang qua sẽ hỏi thăm. Một lúc sau, có một ông lão tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc xăm xăm đi tới. Bá Nha cúi mình thi lễ. Ông già thấy thế hỏi :
— Tiểu sinh có điều gì cần hỏi han chăng ?
      Bá Nha cung kính đáp :
— Thưa lão trượng, trong mấy con đường này, đường nào về Tập hiền thôn ?
       Ông già đáp :
— Cả hai con đường, đường nào cũng về Tập hiền thôn cả. Con đường tay phải về Thôn thượng Tập hiền, còn con đường bên trái về thôn hạ Tập hiền. Vậy tiên sinh cần đến thôn nào ?
       Bá Nha hỏi :
— Thưa lão trượng, Chung Tử Kỳ ở về thôn nào ?
      Vừa nghe nhắc đến ba tiếng Chung Tử Kỳ, ông già kia bỗng sa sầm nét mặt, đôi mắt sâu ngòm đong đầy cả lệ, thứ lệ đặc và mặn chầm chậm tràn ra trên đôi má nhăn nheo... Ông sụt sùi kể :
— Chung Tử Kỳ chính là con của lão. Năm ngoái cũng vào ngày này tháng này nó đi đốn củi về muộn, có gặp một người nước Tấn là Bá Nha tiên sinh. Vì chỗ đồng thanh tương ứng hai người kết nghĩa anh em. Lúc ra đi, Bá Nha tiên sinh có tặng cho con tôi hai nén vàng. Con tôi về nhà dùng tiền ấy mua sách đọc, bất kể giờ khắc. Vì ban ngày đốn củi mệt nhọc, tối đến lại lo học hành nên chẳng bao lâu bị bệnh lao mà qua đời rồi.
       Chưa kịp nói hết câu, đôi dòng nước mắt của Bá Nha đầm đìa trào ra như hai dòng suối. Bá Nha nghẹn ngào không nói được nửa lời.
       Chung lão thấy thế lấy làm lạ hỏi tên tiểu đồng :
— Tiên sinh đây là ai vậy ?
       Tiểu đồng đáp :
— Thưa lão trượng, đây là quan Thượng đại phu nước Tấn, Du Bá Nha đó !
      Chung lão nghe nói thốt ra hai tiếng “ối trời” rồi cũng nghẹn ngào không nói gì được nữa. Cả hai người chỉ nhìn nhau, và thông cảm nhau bằng những dòng nước mắt. Hai thứ nước mắt khác nhau nhưng chảy cùng một nhịp, chung nhau một mối đau đớn.
      Cuối cùng, Chung lão gượng gạo thi lễ và nói :
— Mong ơn Đại nhân không chê cảnh bần tiện. Con lão lúc lâm chung có dặn, vì lúc sống không tròn được đạo làm con, lúc chết xin chôn nơi chân núi Mã Yên để trọn nghĩa tâm giao với lời ước hẹn cùng quan Đại phu nước Tấn. Vì thế theo lời trăn trối, lão đã đem chôn nó nơi bên ven đường ở chân núi. Con đường tiên sinh đi đến, bên mặt có nấm đất con, đó là ngôi mộ của con tôi đó. Nay mới vừa đúng một trăm ngày, lão mang vàng hương đến thăm mộ, mới gặp tiên sinh ở đây.
      Bá Nha lau nước mắt nói :
— Sự đời biến đổi, may rủi khó lường, nay đã đến nỗi này, tôi xin theo lão trượng đến trước mộ phần, để lạy vài lạy cho thỏa tình mong nhớ.
      Nói xong, Bá Nha sai tiểu đồng xách giỏ cho Chung lão, rồi cùng nhau kẻ trước người sau, trở lại nơi chân núi.
      Khi đến nơi, Bá Nha thấy nấm đất bên đường cỏ xanh chưa kín, lòng gợi lên một mối thê lương. Bá Nha vừa khóc vừa lạy, tuy miệng không nói được nửa lời mà trong lòng như đã nói tất cả nỗi hờn biệt ly.
Lạy xong, Bá Nha truyền đem cây đàn đến rồi ngồi trên một tảng đá, tấu lên một khúc nhạc “thiên thu trường hận”.
      Bỗng thấy gió nhàn rít mạnh, ánh sáng u buồn, mấy tiếng chim kêu u uất vọng lên từ xa như những hồn ma bóng quế dật dờ khi say khi tỉnh.
     Bản nhạc ngưng, gió ngừng thổi, trời lại sáng dần.
     Bá Nha nói với Chung lão :
— Có lẽ hồn Tử Kỳ đã hiện về đó ! Chẳng hay lão bá có biết cháu đàn khúc gì đó không ?
     Chung lão đáp :
— Lúc nhỏ lão cũng có biết chút ít về cầm tháo, nhưng nay tuổi đã già, tâm thần hỗn loạn không có thể phân định được khúc gì.
      Bá Nha nói :
— Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm, tài hoa mệnh yểu.[2]
       Bá Nha bỗng hai tay cầm cây đàn đưa lên cao đập mạnh xuống tảng đá. Cây đàn vỡ ra từng mảnh, trục ngọc, phím đồng rời rã tơi bời.
       Chung lão hoảng kinh hỏi :
— Sao tiên sinh giận gì mà lại đập cây đàn đi vậy ,
       Bá Nha đọc luôn bốn câu thơ để đáp lời ông lão:
Suất toái dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại đối thùy đàm
Đại thiên thế giới giai bằng hữu
Dục mịch tri âm nan thượng nan!

(Dịch:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai ?
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!
[3])

      Chung lão thở dài nói :
— Chỉ vì không có người biết nghe mà kẻ đàn hay phải đành thất vọng !
      Bá Nha hỏi :
— Lão bá ở thôn Tập hiền nào ?
      Chung lão đáp :
— Tệ xá ở nơi thôn Tập hiền thượng, vậy mời đại nhân, nếu không chê nghèo nàn, xin đến đó nghỉ ngơi.
      Bá Nha nói :
— Hạ quan xin cảm ơn lão bá, nay nếu hạ quan có trở về đó cũng chỉ gợi thêm nhiều mối nhớ nhung mà thôi. Nhân dịp hạ quan có đem theo mười nén vàng, xin dâng cho lão bá dùng một nửa trong việc cung dưỡng tuổi già, còn một nửa mua mấy mẫu ruộng để làm tự cho Tử Kỳ. Mai hạ quan về triều dâng biểu cáo quan trở về quê cũ, chừng ấy hạ quan sẽ rước bá phụ, bá mẫu về sống chung để yên hưởng những ngày tàn. Tôi tức là Tử Kỳ và Tử Kỳ cũng tức là tôi vậy.
      Nói xong Bá Nha hai tay dâng mười nén vàng cho Chung lão, sụp xuống đất lạy mấy lạy rồi ra đi. Chung lão đứng nhìn theo, lòng bùi ngùi luyến ái…

                                        (Trích từ Trung Hoa Kim Cổ kỳ Nhân)
---------------------------------------------------
[1] Phí Minh Tâm (dịch)
[2] Bài đoản ca đó như sau:
Ức tích khứ niên thu
Giang biên tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri âm nhân
Đãn kiến nhất bôi thổ
Thảm nhiên thương ngã tâm
Thương tâm thương tâm phục
Bất nhẫn lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang bạn khởi sầu vân
Tử kỳ tử kỳ hề
Nhĩ ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phúc đàn
Tam xích dao cầm vị quân tử.

Tạm dịch nghĩa:
Nhớ đến mùa thu năm trước
Từng gặp bạn bên bờ sông
Hôm nay trở lại tìm
Không thấy người tri âm
Chỉ thấy một nấm mộ đất
Thảm thiết đau thương lòng ta
Ôi thương tâm! Lại thương tâm!
Không cầm được nước mắt ròng ròng
Vui đến rồi đi, còn lại đau khổ
Mây sầu trổi lên bên ven sông
Tử Kỳ hởi! Tử Kỳ ơi!
Em và anh có nghĩa ngàn vàng
Dù có đến tận vô bến bờ cũng không nói hết lời
Vậy khúc nhạc nầy cũng dứt không đàn nữa
Dao cầm ba thước chết luôn theo em.


Tạm dịch thơ:
Từ nhớ đến mùa thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phím đàn
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...

                                                 Khuyết Danh
 [3] Phí Minh Tâm (dịch)