Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Chuyện nồi cơm của Khổng Tử

 Hoavouu  (sưu tầm)

      Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử.
      Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ… Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.
      May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo… Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm.

      Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi – một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất – phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.

      Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

      Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống… thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ… Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh… rồi từ từ đưa cơm lên miệng…

      Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài… ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!

      Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về… Nhan Hồi lại luộc rau… Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ…

      Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.

      Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước…

      Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ thầy… cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?"

      Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ!

      Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?

      Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.

      Khổng Tử hỏi: “Tại sao?

      Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi … nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em …

      Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi… bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và… thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!"

      Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Mùa thu- Vivaldi

HG: Đến lúc "buồn tàn thu" rồi mình mới nhớ ra... Tự trách rồi lại tự biện bạch rằng tại bây giờ tiết trời Hà Nội mới gọi là hợp  với mùa thu Âu châu(!) ^.^
Bài này đăng theo dự kiến tiếp nối mạch bài cũ ở đây (phần Mùa hạ- trích Tổ khúc bốn mùa của Vivaldi.)


Nghe chương cuối của Concerto Mùa Thu :


 

Concerto Mùa thu của Vivaldi

   Ngọc Anh (trích)
 (...) 
     Cũng giống như 3 concerto khác của Bốn Mùa, trong Concerto Mùa Thu viết ở giọng Fa trưởng, Vivaldi đã sử dụng các kỹ thuật bậc thầy của violon và các hiệu quả sống động từ dàn nhạc để tạo ra hình tượng âm nhạc, minh họa những gì bài sonnet đi kèm miêu tả.
http://c0.f21.img.vnecdn.net/2013/10/12/canhdongnho11-7539-1381546938.jpg
       Cánh đồng nho mùa thu hoạch- vùng Bourgogne (Pháp)          
      Chương Allegro mở đầu Concerto Mùa Thu miêu tả một ngày hội làng tưng bừng với các bài ca và vũ điệu. Ở đó có những người nông dân đang ăn mừng một vụ mùa bội thu, có những người đang đốt cháy mình bằng thứ đồ uống tuyệt hảo của thần Bacchus (Thần Rượu Nho).
      Chương II - Adagio molto, không chứa đoạn violon solo, tả cảnh những đồ đệ của thần Bacchus lăn ra ngủ lúc đương chè chén.

        Concerto Mùa Thu kết thúc bằng một chương Allegro khác. Âm nhạc mô tả một cảnh đi săn đầy hứng thú. Các thợ săn xuất hiện lúc bình minh và lên đường với bầy chó, súng và kèn. Violon độc tấu ngụ ý tiếng kèn săn trong khi các cây violon khác ở quãng âm thấp hơn trong dàn nhạc thể hiện tiếng bầy chó săn gầm gừ rượt theo con thú đang lẩn trốn... 

(Theo TuanVietNam.net)  



 Nghe Concerto Mùa Thu chương I và II với một video minh họa tuyệt đẹp:




Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Buồn tàn thu


HG: Còn phải hỏi tác giả là ai...



Ai lướt đi ngoài sương gió,
Không dừng chân đến em bẽ bàng...

Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng,
Từ từ xa đường vắng.
Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt
                                             rơi theo lá vàng.
Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn,
                                             em thương nhớ chàng...


Người ơi còn biết em nhớ mong,
Tình xưa còn đó xa xôi lòng.
Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên
Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề.

Áo đan hết rồi, cố quên dáng người,
Chàng ngày nào tìm đến?
Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa
 Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần....

 Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Hoa cỏ mùa thu


HG: Hồi mới tổng hợp bài ảnh này,  một chị đồng nghiệp của mình xem xong bảo: "Xem thấy dịu cả lòng em ạ! Cuộc sống thường nhật đúng là làm mình quên mất...". Lúc đó cảm thấy vui vui, vì đã mang lại cảm xúc tích cực cho chị, dù có lẽ cũng chỉ thoảng qua thôi... 
Hôm biên tập lại, cũng thấy hào hứng thế... Vậy mà bây giờ xem lại trước khi post lên, cứ thấy buồn bã thế nào...


HOA CẢI



"Gió đưa cây cải về trời
  Rau răm ở lại chịu lời đắng cay"




" Mùa hoa cải bên sông"



Lắng mình trong "Mùa hoa cải" - 8
"... Anh rụt rè không dám
Hái một bông cải ngồng
Sợ làm con bướm trắng
    Giật mình bay sang sông..."
                                                                                 (Nghiêm Thị Hằng)






 ***



HOA CỎ MAY




http://img.blog.zdn.vn/20529258.jpg
"Hồn anh như hoa cỏ may
      Một chiều cả gió bám đầy áo em"
                                                                                      (Nguyễn Bính)



 
 

"...Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may."
                                                                                          (Phạm Công Trứ)




 
     "...Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may 
                                                                      Áo em sơ ý cỏ găm dày
                                                                      Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
                                                                      Ai biết lòng anh có đổi thay?" 
                                                                                                                                      (Xuân Quỳnh)



***






HOA LAU





"Thu cô liêu."



                                                                  
"Không biết ngày mai về bến cũ
Sắc lau còn trắng đợi ta không
Đá cũng mòn dần theo nước chảy
Mà trắng lau thì như tuyết bông...

Thôi đừng thổi nữa bờ sông gió
Trắng quá làm ta lại buốt lòng."
                                                                           (Vũ Quần Phương)




 
  
                                                             "Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ
                                                             Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
                                                             Tên mình ai gọi sau vòm lá 
                                                              Lối cũ em về nay đã thu… ”  
                                                                                         (Xuân Quỳnh)





http://tranmai17.files.wordpress.com/2012/10/01820015.jpg

                                                                     "Người ấy bây giờ đang ở đâu? 
                                                                      Để vườn hoang vắng trắng bông cau 
                                                                      Ngàn lau phủ xám đường ra bến 
                                                                      Bờ sông lay lắt mấy chân cầu..." 
                                                                                          (Hoài Vũ)






 
 "Chiều biên giới em ơi!..."




***




HOA CÚC DẠI





                                                               "... Mùa thu ra biển cả
                                                                    Theo dòng nước mênh mông
                                                                    Mùa thu vào hoa cúc
                                                                    Chỉ còn anh và em..."
                                                       (Xuân Quỳnh)



https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhX7WEa2XCO4yQKhMCjbyMcOT5s6MBtd8RCsKgY9XYbxKsDg8Ndi1jjezPfHEv-JTv95Oen-PlZwy0mMlwgJyjZnI-lKqgfB9KgG4GjMcMDM3biazOqGP-Aanio5xdZLhG0ykdNMucI9gg/s1600/hoa+cuc+trang+dep+nhat+(5).jpg






                                                                " Đường đời gập ghềnh gánh nặng
                                                                 Hạnh phúc như lá đã chiều
                                                                 Kiếp tơ còn vương đêm trắng
                                                                Vẫn hồn cúc dại phiêu diêu..."
                                                                                 (Nguyễn Hữu Quý)






Cúc tím Thạch thảo 2013  (13)




Cúc tím Thạch thảo 2013  (358)

                                                             "Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến
                                                             Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi
                                                             Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
                                                             Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi..."
                                                                                                   (Hoàng Nhuận Cầm)



***



HOA DÃ QUỲ (CÚC QUỲ)




 
                                                           "... Nói một lời với dã quỳ đi chứ
                                                                 Kìa tôi ơi ngày đã luống chiều..."
                                                                                                                       (Hương Đình)





"...Cúc quì vẫn rực trên sườn núi
  Vẫn cháy lòng ta mỗi buổi chiều
  Vẫn kiêu sa một mình nơi xứ sở
   Vẫn giận hờn chẳng đợi chờ ai.."
                                                                                    (Nguyễn Viết Hoa)




"Suối Mơ"






...và "Giấc mơ"






***


HOA XUYẾN CHI





                                                          "Em có nhớ về hoa Xuyến Chi
                                                         Như nhớ lời hẹn hò đầu tiên thuở ấy
                                                         Em có nhớ bông lau trong nắng Thu run rẩy
                                                         Em có nhớ đường chiều qua lối ấy mình đi...?
                                                         ...
                                                         Em có nhớ Xuyến Chi gác vắng ngát hương
                                                         Những mặt trời tí hon trong bàn tay em bé nhỏ
                                                         Em say sưa với lâu đài tương lai rực rỡ
                                                         Khiến người buồn năm tháng đợi lê thê..."
                                          
                           


                                                          "Hoa dại …vẫn là hoa dại
                                                          Tự ngàn xưa hoa đã dại thế rồi!
                                                          Cứ ngu ngơ rực rỡ sắc trời,
                                                          Cứ lặng lẽ hương thầm của đất,
                                                          Cứ gió sương, dãi dầu cùng vạn vật,
                                                          Để ngàn năm,
                                                          Để vạn năm,
                                                          hoa vẫn dại.
                                                          Vẫn vẹn nguyên sắc ấy
                                                          với hương này!"
                                                                                                                  (Nguyễn Viết Hoa)

Hoa giấy 
(Nguồn ảnh: Internet)

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Suy nghĩ ngày Quốc tang




http://sohanews2.vcmedia.vn/2013/dt-07184.jpg 




    
      Định giấu đi tình cảm, nhưng khi nhìn quang cảnh người dân đến viếng, rồi khi chính mình cũng nhập vào những dòng người đó..., mình yên lòng khi nhận  thấy mình không hề là ngoại lệ, nên chẳng còn phải cố che đậy cảm xúc mà tự cho phép mình bộc bạch chia sẻ vào đây đôi lời.
     Từng đọc nhiều câu chuyện từ nhiều nguồn (...), mình đã từng nghĩ chẳng còn nước mắt để khóc lãnh tụ... Nhưng từ hôm Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất, cứ lúc nào vào mạng ngắm những trang ảnh và đọc những bài viết về Cụ là nước mắt lại rưng rưng... Vẫn biết sinh- lão- bệnh - tử  là quy luật của đời người, nhưng sao mà vẫn thấy đau thương thế, bất kể vẫn hiểu còn nhiều điều thị phi bàn cãi trong nhân gian...
      Người ta nói thật đúng, rằng tình cảm đó hẳn là một sự pha trộn: vừa là niềm thương tiếc thật cụ thể dành cho Cụ- một Con Người mẫn tiệp, tài đức vẹn toàn; vị tướng quốc công trạng lẫy lừng như huyền thoại suốt ba thập kỷ, mặt khác lại rất đỗi gần gũi thân thương trong biết bao miền kí ức..., vừa là nỗi niềm mông lung, xót xa khi phải tiễn biệt như là tất cả những gì tốt đẹp còn lại...
      Trong rất nhiều những danh xưng dành cho Đại tướng, hai cụm từ "Đại tướng của nhân dân" và "Người Anh Cả của quân đội nhân dân Việt Nam" bình dị mà có sức khái quát, lay động trái tim vô cùng.
      Cháu kính chúc Người yên giấc ngàn thu! Xin được bái vọng Người với tấm lòng thành kính nhất!
 Hoa giấy

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

“Sự ra đi ấy cũng là một mùa gieo hạt”!

                                                                                                  Tuấn Ngọc thực hiện

        Nhà thơ Trần Việt Phương từng là một thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng. Trước đó, ông từng làm thư ký cho cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong quá trình ấy, ông có nhiều cơ hội gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Với ông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trí thức lớn của dân tộc.
       Ông nhớ lại khoảng thời gian những năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người có ý tưởng thành lập Viện hàn lâm khoa học Việt Nam. Ở các nước phương Tây, Viện trưởng Viện hàn lâm khoa học phải là người có trình độ và đóng góp như tiến sĩ với 20 lĩnh vực khác nhau: 10 ngành khoa học tự nhiên và 10 ngành khoa học xã hội, họ thường được gọi là trung gia chứ không phải chuyên gia.
      Những người tài năng như thế thường được phát hiện và bồi dưỡng từ năm đầu tiên của trung học cơ sở. Thế nhưng khi Đại tướng có ý tưởng thành lập Viện tại Việt Nam, các trí thức lúc bấy giờ đều nhất loạt đồng ý việc Đại tướng sẽ là viện trưởng của họ. Nhà thơ Việt Phương nói rằng, cái tôi của người trí thức rất lớn, họ không chịu phục tài những ai kém mình hoặc chỉ ngang bằng với mình. Thế nhưng, Đại tướng lại làm được điều đó bởi lẽ ở ông, tự thân đã có thứ ánh sáng của trí tuệ được trải nghiệm, được hun đúc từ một cuộc đời không ngừng học tập, chứ không phải từ bất cứ học hàm, học vị nào đó.
Dấu ấn của người trí thức Võ Nguyên Giáp
Ở Việt Nam, có những người  không có bất cứ học hàm, học vị nào như Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhưng lại được nhìn nhận là một trí thức lớn. Là một trí thức có nhiều cơ hội gần gũi với Đại tướng, ông nhận định như thế nào về điều này ?
         Tôi cho rằng, đánh giá người trí thức không nên nhìn vào văn bằng, học vấn mà đánh giá ở kiến thức, trình độ, trí tuệ và cái tâm của con người đó, xem họ có đóng góp gì cho sự phát triển của đất nước mình, đóng góp gì cho nhân dân của mình hay không.
Chiến khu Việt Bắc năm 1949.
         Người trí thức không thể thiếu hai điểm: trung thực và sáng tạo. Nếu không có sự trung thực và sáng tạo thì không phải là trí thức. Sự sáng tạo ấy chính là dấu ấn để đời của trí thức mà không ai có thể thay thế được. Tất cả những điều đó đều có ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Những dấu ấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại trong lĩnh vực quân sự đã được cả thế giời này thừa nhận. Thế còn đối với giới trí thức Việt Nam nói riêng và tri thức Việt Nam nói chung, dấu ấn Võ Nguyên Giáp nằm ở đâu, thưa ông?
        Theo tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những người có hiểu biết khoa học toàn diện nhất ở nước ta. Điều đó thể hiện trong cách tiếp nhận và vận dụng kiến thức của loài người một cách linh hoạt. Ông là người có tư duy về sự sống. Ông nâng niu những biểu hiện nhỏ nhất của sự sống, càng nâng niu sự sống thì càng nâng niu con người bởi con người là một thành tố quan trọng của sự sống.
Những nhà khoa học lớn mà tôi biết như cố giáo sư Lê Văn Thiêm, giáo sư Hoàng Tụy, giáo sư Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Thọ, giáo sư Vũ Quang Việt…đều rất yêu quý và trân trọng người trí thức Võ Nguyên Giáp.
Có một đặc điểm nổi bật của các nhà trí thức, đó là cái tôi của họ rất lớn. Họ chỉ bị khuất phục bởi duy nhất một điều, đó là tài năng. Vậy theo ông, điều gì ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp tạo nên sự đồng thuận như thế trong giới trí thức ?
        Những người trí thức càng ngày càng ít coi trọng bằng cấp, học hàm, học vị. Điều có trân trọng hơn cả là trình độ hiểu biết là những đóng góp cho nhân dân, cho đất nước. Cái tôi của người tri thức rất lớn, nhưng người trí thức chân chính liên tài chứ không ganh tài. Ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp có điều đó. Tri thức mà ông tích lũy được không phải thể hiện qua bằng cấp mà đó là trí tuệ tự thân cộng với quá trình không ngừng trau dồi, học hỏi. Tôi thấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong số những nhà lãnh đạo hiếm hoi luôn tự cầm bút viết từ đầu đến cuối những bài gan ruột của mình.
        Mặt khác, đã là một người trí thức chân chính thì không thể nào không trân trọng trí thức và tri thức. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một người như thế. Trước đây, khi thủ tướng Võ Văn Kiệt còn sống, ông rấy quý trọng và ngưỡng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngược lại Đại tướng cũng đánh giá cao ông Võ Văn Kiệt và coi ông như một trí thức.
        Đại tướng là người có khả năng tiếp thu và chọn lọc thông tin từ cuộc sống. Ông cũng là người biết lắng nghe trí thức, biết lắng nghe nhân dân. Ông là người tầm sư học đạo từ các trí thức khác và từ chính nhân dân của mình. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn với giới trí thức của người trí thức Võ Nguyên Giáp.
        Năm 1940, hai ông Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Sau này ông Phạm Văn Đồng kể lại, chỉ vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp đã đi diễn thuyết bằng tiếng Trung. Thời kỳ ở Việt Bắc, cả hai ông cùng ở với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Phạm Văn Đồng không nói được tiếng Tày, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói được tiếng Tày, riêng ông Võ Nguyên Giáp nói tiếng Tày như người Tày. Sau này tôi có dịp chứng kiến Đại tướng tiếp đồng bào người Tày, ông nói tiếng Tày lưu loát sau cả nửa thế kỷ rời Việt Bắc.
Lâu lắm rồi, sự đồng cảm dân tộc mới lớn như lúc này

“Tôi sống ngày nào cũng vì đất nước ngày đó” – Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tôi được biết, Đại tướng là người cổ súy cho sự phát triển của xã hội dân sự tại Việt Nam. Tôi cũng được biết, ông là một trong những thành viên của Ban nghiên cứu của Thủ tướng  nghiên cứu vấn đề này tại Việt Nam. Điều gì khiến Đại tướng lại tâm huyết với nó như thế ? 
        Mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự mà mối quan hệ đối tác tương tác bình đẳng với nhau, tạo nên một xã hội phát triển tốt đẹp – đó chính là lý do Đại tướng ủng hộ sự phát triển của xã hội dân sự ở Việt Nam. Khi tôi báo cáo với Đại tướng về vấn đề này như một người lính báo cáo với Tư lệnh của mình, Đại tướng hoàn toàn đồng ý bởi điều mà ông luôn trăn trở trong suốt cuộc đời mình đó là làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và dân chủ hơn.
        Tôi phải nói thêm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người có tư duy độc lập, ông không thần tượng ai hoặc bất cứ tư duy sách vở nào cả – đó là đặc điểm nổi bật ở người trí thức Võ Nguyên Giáp. Ông là một trí thức “đại nghi để tìm đại ngộ”. Sự nghi ngờ ở đây không phải là chủ nghĩa hoài nghi mà là sự nghi ngờ khoa học để tìm ra chân lý.
Đó có phải là lý do mà Đại tướng tham gia phản biện một số chính sách, quyết sách đối với các vấn đề lớn của đất nước vào những năm cuối đời để tìm ra chân lý: Một xã hội Việt Nam thịnh vượng, công bằng và văn minh ?
        Tôi xin đính chính lại, không phải đến cuối đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp mới có những ý kiến như thế mà là suốt đời bởi như lời ông nói “tôi sống ngày nào cũng vì đất nước ngày đó”. Những năm cuối đời, những ý kiến của ông được mọi người chú ý hơn bởi khi ấy ông không còn đảm nhận chức trách nào cả mà đó chỉ là tâm huyết của một bậc lão thành có tấm lòng với dân, với nước.
        Có một sự khác biệt đến vô tận giữa Đại tướng và một người đang nằm trên giường bệnh đó là khi ông không thể nói được nữa, người thân cận vẫn phải viết ra các phương án và nói cho ông nghe. Nếu ông đồng ý, ông sẽ gật đầu, nếu ông không đồng ý ông sẽ lắc đầu ra hiệu. Những điều đó khiến tôi kính cẩn nghiêng mình trước con người ông.
Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại nhiều mất mát trong lòng người dân Việt Nam, nhất là các nhân sỹ, trí thức bởi từ lâu, họ đã coi ông như một điểm tựa tinh thần cùng đồng hành trong nỗ lực chấn hưng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, một dân tộc Việt Nam hùng cường, một xã hội Việt Nam công bằng và dân chủ hơn. Hình như lâu lắm rồi, đồng thuận dân tộc mới cao như lúc này ? 
        Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại một sự mất mát lớn cho chúng ta. Nhưng đồng thời, sự ra đi ấy cũng là một mùa gieo hạt, gieo những hạt mầm gieo hạt tốt tươi. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không đi mà chỉ về bên Bác Hồ. Sự đồng thuận dân tộc lúc này là cơ hội để chúng ta đưa đất nước phát triển mạnh mẽ hơn – đó là niềm tin của tôi ngay trong lúc này.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện và chúc cho những hy vọng của Đại tướng sẽ sớm trở thành hiện thực.
Theo Một thế giới 

                   Củ Chi năm 1996                           








Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

Vĩnh biệt đại tướng Võ Nguyên Giáp!

                                                                                                          Nguyễn Quang Lập


Cụ Võ và cụ Hồ tại Sở chỉ huy Chiến dịch Biên giới (1950).
NQL: Mình được bạn bè và người nhà cụ Võ báo tin: cụ đã về trời lúc 18h9 phút ngày 04/10/2013, hưởng thọ 103 tuổi, cái tuổi xưa nay hiếm. Tiếc thương cụ vô hạn, mình không biết làm gì hơn, xin đăng lại bài viết của mình năm cụ tròn 100 tuổi, tưởng là cụ đi lúc đó, cầu cho cụ được bình an nơi cõi Phật.

 Kỉ niệm nhỏ về Võ Đại tướng
       Dân Quảng Bình ở Hà Nội hầu hết đã gặp cụ Võ, dân làm báo viết văn Quảng Bình hầu hết đã đến nhà cụ chơi, thế mà mình thì không.
      Bữa trước ngồi nhậu với Trần Quang Đạo, Bảo Ninh, Nguyễn Hữu Quí, chúng nó hẹn đến chơi nhà cụ, mình không đi.

      Anh Mĩ rất gần gũi cụ, xưa đã từng theo cụ cả năm trời vào cái thời lấy Tây Nguyên làm thủ đô kinh tế, với cô Hà lại là chỗ thân thiết, anh bảo mình đến chơi mấy lần, nhưng mình ngại, không đến.
     Chẳng phải vì sợ mang tiếng thấy người sang bắt quàng làm họ, chỉ vì mình ngưỡng mộ từ lâu rồi, ngưỡng mộ thấm tận xương tủy, bây giờ gặp chẳng may vì lí do gì đó làm mình thất vọng thì chán lắm.

      Đã có đôi ba người ở xa thì yêu quí kính trọng vô cùng, khi gặp cái là chán ngoét, đôi khi vì chuyện đó mà buồn cả tháng. Thành ra mình quyết định ở xa ngưỡng mộ cụ thôi.
     Dân Quảng Bình, là nói dân sở tại, ai cũng có thể chê bai, kể cả bố mẹ, nhưng cụ Võ thì không, tuyệt nhiên không. Thế gian có ba người dân Quảng Bình thờ phụng đó là Chúa, Phật và cụ Võ.
     Họp hội đồng hương năm nào cụ cũng đến, hễ cụ đến trễ tí là lại xôn xao, thì thào không biết có chuyện chi mà giờ này cụ chưa đến. Cụ nói nhỏ, người nghe thì đông, hầu hết chẳng nghe gì nhưng hễ cụ nói xong ai nấy đều hân hoan như vừa nghe xong thánh chỉ.
     Chẳng phải thời cụ làm quan cụ lo lót được cho dân Quảng Bình. Mình hỏi nhiều ông quan to Quảng Bình, nói cụ Giáp có bố trí được ghế này ghế nọ không,?  Ai cũng thở hắt ra, nói è he.. có mô. Hễ có việc gì của tỉnh người ta chạy đến chỗ nọ chỗ kia chứ chẳng bao giờ chạy đến cụ.
     Thì Phật, Chúa tóm lại có lo được cho dân chút gì đâu nhưng có đánh chết dân vẫn không thôi thờ phụng. Cụ Võ cũng thế thôi.
      Quý Doãn nói cụ đánh hai đế quốc to đã trợt mặt rồi, mình còn đòi hỏi cụ cái chi nữa.

http://www.cand.com.vn/Uploaded_VNCA/hoabt1/4_dai1978-450.jpg      Thời xưa các ông bộ chính trị đều có ảnh phóng to, lồng khung treo tường cả. Mình còn bé chẳng biết ông nào ra ông nào, chỉ duy nhất cụ là mình biết, bởi vì cụ là Đại tướng. Con nít thì Đại tướng là nhất, còn mấy cái chức khác thì mặc kệ, chẳng quan tâm.
      Sáu, bảy tuổi ngồi há mồm nghe anh Chanh, anh Út kể chuyện cụ, sướng rêm người.
      Anh Chanh kể tướng Đờ Cát gọi điện cho Cụ Hồ xin tha. Cụ Hồ hỏi Đại tướng ý kiến chú ra răng? Đại tướng nói thưa Bác thằng mô tha thì tha chứ Đờ Cát thì dứt khoát không tha. Tụi mình vỗ tay rào rào, nói đúng đúng không tha! Không tha!
     Anh Út kể đội bóng đá nước mình đá với đội Trung Quốc, bị sút quả 11m, nếu bắt thì thủ môn sẽ vỡ ngực chết, không bắt thì thua. Trưởng đoàn gọi điện cho cụ Hồ hỏi thưa Bác có bắt không, cụ Hồ thương thủ môn chết tội, định nói thôi không bắt. Đại tướng ưỡn ngực rập chân, nói thưa Bác... dù chết Tổ quốc mình cũng không thể thua. Cả lũ nhảy lên reo hò, nói đúng đúng! Dù chết cũng không thua!
     Rồi xúm lại hỏi anh Út cuối cùng mình có thắng không. Anh Út vênh mặt lên, nói thắng chơ răng. Sướng muốn ngất luôn.
      Đại khái cái gì Cụ Hồ cũng hỏi Đại tướng, cái gì Đại tướng cũng quyết định ngon lành, toàn trúng không thôi. Tâm hồn bé thơ của mình đầy ắp những chuyện như thế.
       Mấy chục năm sau, hình như năm 1980, đang ăn cơm bỗng nghe tin cụ đựơc phân làm trưởng ban Sinh đẻ có kế hoạch, bỏ cơm nằm khóc rưng rức suốt cả buổi chiều. Tâm hồn bị tổn thương trầm trọng giống như thấy người ta đang làm nhục bố mình.
      Năm sau, kỉ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, đài ngâm bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, mình ngồi phục xem người ta có ngâm câu Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên Giáp/ Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp hay không. Hoá ra không.
       Điên tiết mình đập tan cái đài của anh Đuya, sau phải vay tiền gần chết mua cái đài mới đền anh.
     Năm 1984, đoàn kịch Quân đội dựng vở Bài ca Điện Biên, hình như kịch bản của Sĩ Hanh, Doãn Hoàng Giang đạo diễn. Nghĩ bụng chắc người ta chẳng mời cụ đến dự đâu. Hóa ra cụ đến. Bụng phục thầm quân đội quá xá, chỉ có quân đội gan mới to thế chứ chẳng ai dám đâu.
      Mình đứng cuối hội trường hồi hộp chờ xem cái đoạn kết. Đoạn kết có chi tiết chính uỷ mặt trận báo cáo chiến dịch thắng lợi, chỉ mỗi câu báo cáo Đại tướng hay báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà cãi nhau ỏm tỏi.
       Anh Giang thì cứ tủm tỉm cười nói rồi mày xem anh xử lí thế nào.
     Vở kịch quá dài, hơn hai tiếng, xem mệt cả người, rồi cũng đến hồi kết. Khi tập thì anh Đoàn Dũng, trong vai chính uỷ mặt trận, chỉ quay điện thoại về chỉ huy sở mặt trận báo cáo với Đại tướng. Nhưng khi đó, anh Đoàn Dũng chạy vụt xuống đứng trước mặt cụ, rập chân ưỡi ngực chào.
      Cụ bị bất ngờ, lúng túng đứng lên.
     Anh Đoàn Dũng nói to, dõng dạc từng tiếng một: Báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh mặt trận, chiến dịch Điện Biên Phủ đã hoàn toàn thắng lợi. Tướng Đờ Cát đang ở trước mặt chúng ta!
     Cả ngàn người vụt đứng dậy vỗ tay như sầm rền, kéo dài hơn 10 phút, nhiều người khóc oà.
      Mình bật khóc nức nở, chạy ra khỏi hội trường đứng khóc, hét to ôi sướng quá trời ơi!

      Tối đó về nhà nằm lúc lúc lại bật khóc. Đang viết những dòng này cũng nước mắt như mưa.

(Blog Quechoa )
---------------------------------------------------------------------

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời nhà báo Pháp năm 1964:

 



-------------------------------------------------------------------

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhạc sĩ Văn Cao
 tại nhà nhạc sĩ Văn Cao mồng 5 Tết Nhâm Thân (1992)

 Sau khi thăm địa đạo Củ Chi, đại tướng nghỉ trưa dưới rặng tre (1996)


Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua góc nhìn âm nhạc 4


Chuyện tình Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương

                                                                                                      Nguyễn Trọng Tạo
HG: "Món" này là mới tinh so với những gì mình đã biết nha! :)
Phải nói, khi đọc thấy tin mới có xuất bản cuốn sách "Nguyễn Du trên đường gió bụi " của tác giả Hoàng Khôi, trong đó có kể về mối tình quãng ba năm thời trẻ của hai nhà thơ lớn, cũng là mối tình đầu của nữ sĩ... Mình mắt tròn mắt dẹt, nghĩ bụng: Trời ơi, phạm thượng phạm thượng... Dám bịa đến thế kia ư?!... Thế rồi khi vội search thử thì quả... "Ối chao ôi trên trời lắm sao, dưới ao lắm cá, thiên hạ lắm người..." ^.^ !!! Người ta biết chuyện này từ đời nào, mình  chậm cập nhật thông tin quá mất thôi!

      Tôi đọc thơ Hồ Xuân Hương, và giật mình khi gặp bài thơ nôm “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” – đầu đề bằng chữ Hán, có nghĩa là: “Nhớ bạn cũ, viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu; và dưới đầu đề còn mở ngoặc (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân). Sở dĩ tôi giật mình bởi vì Nguyễn Hầu ở đây không ai khác, mà chính là Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Hóa ra Nguyễn Du lại là “bạn cũ” của nữ sĩ họ Hồ. Bài thơ thật tình tứ, và khẳng định rằng “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn”. Hẳn là hai nhà thơ lớn này đã từng dan díu với nhau không phải là ngắn, phải đến 3 năm cơ đấy. Bài thơ như sau: 

              Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
              Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
               Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
              Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
              Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
              Phấn son càng tủi phận long đong
              Biết còn mảy chút sương đeo mái   
              Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong. 
      Nhiều nhà nghiên cứu rất thú vị ba chữ “Sương đeo mái” có cái nghĩa nghịch ngợm khi nói lái, hợp với cái tính nghịch ngợm của Hồ Xuân Hương qua thơ Nôm truyền tụng. Nhưng giáo sư Hoàng Xuân Hán lại phiên âm và chứng minh ba chữ ấy là “Sương siu mấy” – Sương siu có nghĩa là bịn rịn. Về vấn đề văn bản học xin dành cho các nhà nghiên cứu, còn tôi thì chỉ chú ý tới câu chuyện tình của hai thi tài đáng kính. Nhưng họ yêu nhau như thế nào, vào thơi gian nào thì không có sử sách nào ghi lại cả. Chuyện đã vài trăm năm, làm sao mà biết được?
      Tôi đánh đường vào Tiên Điền thăm mộ cụ Nguyễn Du. Thắp hương khấn vái một lát, bỗng thấy một làn mây trắng từ ngôi mộ bay lên rồi tan biến rất nhanh. Tôi quay lại, thấy Nguyễn Du đứng cạnh, mỉm cười. Tôi chắp tay lạy tạ thì Nguyễn Du nói:
- Miễn lễ! Miễn lễ! Anh tìm ta để hỏi chuyện cô Hồ phải không?
- Dạ, phải! Tôi mừng quá, theo Nguyễn Du về nhà, ngồi vào bàn rượu. Trên bàn chỉ bày một nậm rượu bằng sứ và một cái chén mắt trâu cũng bằng sứ.
- Be và chén này cô Hồ tặng ta đấy – Nguyễn Du nói – ta giữ mãi đến giờ, vì trọng cái tình của người “Cổ Nguyệt”.
       Tôi vừa khâm phục vừa xúc động, liền thưa:
- Cháu đọc thơ Hồ Xuân Hương mới biết được chuyện tình ý của cô Hồ với Người. Sau này có người viết sách phỏng đoán là hồi Người được bổ làm tri phủ Thường Tín rồi trở lại Thăng Long làm việc, chuyên đón tiếp sứ Thanh mới quen biết và lui tới với Hồ Xuân Hương. Chẳng lẽ gần 40 tuổi, Người mới có cuộc tình với nữ sĩ chăng?
     Nguyễn Du nhấp rượu, lắng nghe, rồi nói:
- Sách của ông Hoàng Xuân Hãn lại viết khác, ông ấy đoán cuộc tình của ta với cô Hồ “phải vào đời Tây Sơn, khoảng từ năm 1792 – 1795, lúc đó trai chừng 27 – 30 tuổi, gái chừng 19 – 22 tuổi”, bởi ông ấy cho rằng thời gian đó ta ở nhà anh ruột là Nguyễn Nễ, cạnh Giám Hồ (Hồ Gương). Đọc Truyện Kiều của ta, chắc anh cũng biết ta là một người trải tình. Cái nòi tình đeo đẳng. Thân phụ ta 8 vợ. Mẹ ta là vợ thứ 3. Nếu hồi ấy có luật 1 vợ 1 chồng thì làm gì có ta để đời sau lấy làm tự hào! Ta chỉ có 3 vợ thôi, nhưng cũng có đến 12 con trai và 6 con gái. Hồi trẻ tuổi, ta đã “mê” cô Cầm chơi đàn nguyệt ở Long Thành. 20 năm sau ta được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc (1813), qua Thăng Long tình cờ nghe đúng tiếng đàn ấy, ta nhận ra cô Cầm thì cô đã già và tiều tụy thật khó coi. Ta cảm thương vô hạn, nên làm bài thơ “Long Thành cầm giả ca” để ghi nhớ mối cảm thương.
- Đời sau, có người đoán cô Cầm ấy chính là Hồ Xuân Hương. Như vậy hóa ra cô Hồ là kĩ nữ?
- Đoán thế là sai rồi. Cô Cầm hơn cô Hồ trên chục tuổi. Thời ở nhà anh Nguyễn Nễ, ta có nỗi buồn riêng nên thường đi chơi cùng bạn bè cũ. Tình cờ ta gặp Xuân Hương và quý tính tình tự nhiên, thẳng thắn cùng tài thơ lịch lãm của cô ấy. Xuân Hương lúc ấy khoảng 20 tuổi, tâm hồn dễ cảm. Do đàm đạo thơ phú mà ta và cô Hồ đã phải lòng nhau. Ta cũng đã hẹn cô Hồ đi thuyền hái sen ở Hồ Tây. Nhưng chuyện tình thì không ai dám ngỏ. Mấy năm đi lại với nhau, ta nhận ra cô Hồ được nhiều người yêu mến tài sắc, và tình cô thì nhiều ngả vấn vương, cho nên ta có ý ngại. Tuy vậy sau khi rời Thăng Long, đôi lúc ta cũng nhớ tới Xuân Hương, mộng thấy đi hái sen cùng cô ấy, và ta đã làm thơ.
       Nguyễn Du ngâm 5 bài thơ Mộng đắc thái liên (Mộng thấy hái sen), tôi nhớ bài 4 thật hay: “Cộng tri liên liên hoa – Thùy giả liên liên cán – Kỳ trung hữu chân ti – Khiên liên bất khả đoạn” nghĩa là: Hoa sen ai cũng ưa – Cuống sen nào ai thích – Trong cuống có mành tơ – Vấn vương không thể dứt.
- Nghe nói tuy yêu nhau thế, nhưng Người lại nặng lòng với nhà Nguyễn nên đã dứt tình với cô Hồ?
- Đúng vậy, khi đi qua Thạch Đình (đình đá), ta đành phải viết một bài thơ nôm khá cay đắng gửi cho cô Hồ. Bài thơ có tên là “Thạch Đình tặng biệt”: 
           Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời
           Nước non sầu nặng muốn đi về.
           Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt,
           Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.   
           Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
           Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
           Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,   
           Tròn trặn gương tình cũng có khi...
      Nhận được bài thơ đó, cô Hồ thực sự chua xót, nhưng cũng họa lại một bài gửi ta, đó là bài “Họa Thanh Liên Chí Hiên liên vận”: 
           Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy,
           Cánh phượng đường mây đã vội chi.  
           Chua xót lòng xem lời để lại,
            Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
           Thử vàng đá nọ treo từng giá,
           Phong gấm hoa kia nở có thì,
           Đào thắm mận xanh còn thú lắm,
           Xuân ơi đành nỡ đứt ra về.
- Và Người đã xa cô Hồ từ đó?
- Gần 20 năm sau khi biệt Xuân Hương, ta được thăng Cần Chánh điện học sĩ (tháng 2 – 1813). Biết tin này, cô Hồ đã làm bài thơ gửi ta. Thì ra lòng cô vẫn còn vương vấn tình xưa. Ta xúc động lắm.
- Sao khi đi sứ, qua Thăng Long, Người không tìm gặp lại cô Hồ? Tôi hỏi.
- Lúc ấy mỗi người mỗi cảnh. Ta bận việc công. Đi sứ về phải trở lại Kinh đô Huế ngay. Thế là biền biệt mãi. Tuy vậy, khi viết Truyện Kiều, ta vẫn nhớ tới cô ấy mà viết nên câu: 
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng.
       Nói đến đây thì Nguyễn Du biến mất. Tôi bồi hồi nhớ lại lời Xuân Diệu về chuyện này: “Chuyện quả thật như thế thì vui biết bao! Cái thiên tài của tiếng Việt và cái tinh túy của tâm hồn Việt Nam nở rộ cùng một lúc ra hai tài thơ lớn… Nó làm cho tâm trí ta được ấm áp thêm”.

------------------------------------------------------
Đọc thêm:
2. Hoàng Xuân Hãn- Thân thế và sự nghiệp Hồ Xuân Hương
3. Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ Xuân Hương- Nguyễn Du