Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Happy New Year


Happy new year

                                    ABBA
No more champagne
And the fireworks are through
Here we are, me and you
Feeling lost and feeling blue
It's the end of the party
And the morning seems so grey
So unlike yesterday
Now's the time for us to say...

Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don't we might as well lay down and die
You and I

Sometimes I see
How the brave new world arrives
And I see how it thrives
In the ashes of our lives
Oh yes, man is a fool
And he thinks he'll be okay
Dragging on, feet of clay
Never knowing he's astray
Keeps on going anyway...

Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don't we might as well lay down and die
You and I

Seems to me now
That the dreams we had before
Are all dead, nothing more
Than confetti on the floor
It's the end of a decade
In another ten years time
Who can say what we'll find
What lies waiting down the line
In the end of eighty-nine...

Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don't we might as well lay down and die
You and I

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Nhạc sĩ Văn Cao: Mùa xuân đầu tiên

HG: Mình thích bài hát này vô cùng! Lần nào hát lên, tự nhiên cảm xúc trong lòng cũng dào dạt...
Bài viết dưới đây của tác giả Dương Minh Đức đã kể câu chuyện có giá trị. Cả những dấu "?", "!" và "(!)", "(?)"rồi "!?", "?!"... trong tâm tư mà nó mang đến cho  người đọc, cũng giá trị. 
Năm mới, một mùa xuân mới lại về rồi!




Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về 
Mùa bình thường mùa vui nay đã về 
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh. 

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao! Trong xuân vui đầu tiên.
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên, một cuộc đời êm ấm. 
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.


Cố nhạc sĩ Văn Cao: "Mùa xuân đầu tiên", tuyệt tác cuối cùng


                                                                                                                        Dương Minh Đức


     Có người đã mượn cách chơi chữ để gọi ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" là "tuyệt phẩm cuối cùng của thiên tài âm nhạc Văn Cao". Quả đúng thế thật. Ca khúc có số phận kỳ lạ. Nó ra đời sau khi Văn Cao ngừng sáng tác ca khúc tới hai chục năm...



     Như một tiểu thư đài các, thoạt đầu ca khúc còn dè dặt giữ một khoảng cách với khán giả. Nhưng rồi, cùng với thời gian, như rượu ủ lâu càng ngấm, "Mùa xuân đầu tiên" ngày càng đi vào đời sống. Có lẽ không hề quá lời khi ta khẳng định rằng, đây là bài hát luôn thức dậy trong hồn ta mỗi độ Tết đến xuân về, kèm theo đó là những bâng khuâng, day dứt về một thái độ sống sao cho xứng với những gì mà cả dân tộc đã phải mất bao nước mắt, máu xương mới giành lại được...
     Trong một bài viết in báo cách đây khá lâu, họa sĩ, nhà thơ Văn Thao - con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao đã kể lại quá trình phụ thân mình sáng tác nên ca khúc "Mùa xuân đầu tiên": Vào một ngày giáp Tết Bính Thìn (1976), từ trung tâm chỉnh hình trên Ba Vì trở về nhà (108 Yết Kiêu, Hà Nội), vừa leo lên thang gác, Văn Thao chợt nghe vọng ra tiếng đàn dương cầm. Đó là một điệu valse với giai điệu mượt mà sâu lắng mà ông chưa bao giờ được nghe. Ông bước vào nhà. Một cảnh hết sức ấn tượng hiện ra trước mắt ông: "Văn Cao ngồi bên đàn. Đôi bàn tay khô gầy của ông đang lướt trên những phím đàn ố vàng, loang lổ. Tiếng đàn ấm áp, ngọt ngào âm vang đầy ắp căn phòng".
     Sau màn chào hỏi, thăm nom sức khỏe của hai bố con, Văn Thao nêu nhận xét: "Lâu lắm con mới lại được nghe bố đánh đàn một cách say sưa như thế này. Giai điệu đẹp quá. Bài mới sáng tác của bố đấy à?". "Ừ! Bố sáng tác bài hát này mừng xuân đầu tiên đất nước mình thống nhất". Văn Thao nghe mà phấn khích. Vậy là phụ thân ông lại sáng tác ca khúc, điều mà trước đấy hai mươi năm, cụ đã tuyên bố dứt bỏ. Và Văn Thao nhớ lại: Ngày 30/4/1975, nghe tin đất nước hoàn toàn thống nhất, trong khi nhà nhà rộ lên tiếng reo vui thì Văn Cao im lặng. Ông im lặng nhưng đôi mắt sáng lấp lánh.
     Cũng theo ông Văn Thao cho biết thì phụ thân của ông đã hoàn tất ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" đúng dịp Tết Bính Thìn. Ca khúc sau đó được in trên Báo Sài Gòn giải phóng. Và, không hiểu bằng cách nào, cũng trong năm ấy, ca khúc được dịch lời và in ở Nga. Tưởng như vậy là nhanh, kỳ thực phải tới nhiều năm sau, "Mùa xuân đầu tiên" mới được dàn dựng và phát sóng.
     Theo cách cắt nghĩa của một số nhà nghiên cứu âm nhạc thì sở dĩ có thời kỳ,  "Mùa xuân đầu tiên" không được giới quản lý cho phép phổ biến, ngoài những định kiến về Văn Cao trong quá khứ còn vì trong ca khúc, họ lấn cấn bởi những câu sau: "Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người". Nghe mà thấy mơ hồ, rắc rối quá. Thì có một thời người ta cảnh giác, săm soi, bắt bẻ từng câu từng chữ như vậy mà.  
     Trở lại với câu chuyện vì mấy câu ca từ kêu gọi tình thương một cách "chung chung, thiếu tính giai cấp" ấy mà mất một thời gian, bài hát không được phổ cập đúng với giá trị đích thực của nó. Thiết nghĩ, đấy chỉ là một lý do. Điều khiến "Mùa xuân đầu tiên", dù sau này cũng đã được dàn dựng, biểu diễn trong thời gian tác giả còn sống (như được ca sĩ Minh Hoa thể hiện trong đêm nhạc "Văn Cao - một đồng hành tuổi trẻ", được ca sĩ trẻ Thanh Thúy, bấy giờ mới 17 tuổi thể hiện trong video ca nhạc "Văn Cao - Giấc mơ một đời người"), nhưng chỉ tới khi Văn Cao tạ thế (năm 1995), mới thực sự đi vào đời sống và ngày càng lan tỏa, chiếm lĩnh tâm hồn khán thính giả, ấy là bởi ở thời điểm đất nước gặp nhiều bộn bề, khó khăn cả về đời sống vật chất và tinh thần, hình như tâm hồn con người cũng chưa đủ độ "lắng" để đón nhận một bài hát sâu sắc, trong trẻo và thánh thiện đến vậy.

     Như trên đã nói, ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" được in lần đầu trên Báo Sài Gòn giải phóng. Cụ thể chuyện này thế nào, trên số Báo Sài Gòn giải phóng ra ngày 2/2/2008, nhạc sĩ Trương Quang Lục cho biết: "Ngày 5/5/1975, nhật báo Sài Gòn giải phóng phát hành số đầu tiên. Vài ba tháng sau đó, Ban Biên tập của báo đã nghĩ đến việc chuẩn bị nội dung cho số báo xuân đầu tiên sau ngày giải phóng, với ý định làm sao để tờ báo xuân này thật hay, thật đẹp, thật hấp dẫn. Do đó, riêng về phần âm nhạc, Ban Biên tập quyết định mời nhạc sĩ Văn Cao, đang ở Hà Nội, viết một ca khúc mới cho số báo Xuân Sài Gòn giải phóng 1976... Khi nghe ý kiến "đặt hàng" này, nhạc sĩ Văn Cao vui vẻ nhận lời và hứa sẽ sáng tác ngay. Mấy ngày sau đó, ông hoàn thành ca khúc "Mùa xuân đầu tiên". Theo nhận định của nhạc sĩ Trương Quang Lục thì "Mùa xuân đầu tiên" chính là "ca khúc đầu tiên được in trên một tờ báo xuân cách mạng tại Sài Gòn sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất".

     Đến nay, đã có rất nhiều khán thính giả yêu âm nhạc lên tiếng phẩm bình, phát biểu cảm xúc của mình khi nghe ca khúc tuyệt vời này. Riêng tôi ấn tượng với hai ý kiến này hơn cả. Một của nhà thơ Thanh Thảo: "Cả một dòng sông vui, nhưng không trào cuộn ồn ào, mà như lắng lại, nghe kỹ thấy những lượn sóng đang run run, những lượn sóng như nhắn nhủ cái gì, báo trước điều gì". Và một của tác giả Dương Tấn Long: "Nghe loáng thoáng, dễ dãi với các ca từ "mùa xuân", "chim én"… trong nhịp valse sang trọng, tươi vui dễ cảm nhận đó là tình tự của mùa xuân, của ngày Tết rộn ràng. Nhưng cặn kẽ, sâu lắng, càng ngẫm nghĩ cứ thấy nặng lòng, vời vợi. Giai điệu và ca từ mới nếm vào thì thấy dịu ngọt, nhưng cái ý, cái hồn cứ ngấm dần, nghe đắng quanh cổ xuống tận tim gan... Nước nhà thống nhất, không còn chiến tranh - đó là điều kiện thuận lợi, cho phép chúng ta mơ ước, khát vọng. Nhưng Văn Cao đã nghiệm ra rằng, đất nước, con người Việt Nam vừa trải qua đau thương, ly loạn, đã đánh mất nhiều giá trị truyền thống, nhân bản... Dâu bể, tang thương, nghiệt ngã, đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng gia đình, từng thân phận. Vết thương đất nước chưa lành, nhân tâm còn bất ổn nên không quá vội vàng, ảo tưởng, hân hoan thái quá. Cần khơi dậy tình người, đánh thức nhân tính… Mọi thứ chỉ mới bắt đầu, phải làm lại từ gốc… trên những "Mùa bình thường", "người biết thương người", "một trưa nắng vui cho bao tâm hồn"… thật bình dị nhưng cần thiết như cơm ăn, nước uống, khí trời... cho lẽ sống Việt Nam. Nếu mọi người ý thức được như thế là một khởi đầu tốt đẹp, đã là một mùa xuân mơ ước!"

     Những năm gần đây, vào mỗi độ xuân, chúng ta lại nghe "Mùa xuân đầu tiên" vút bay lên trong tiếng ca đầy luyến láy, mê hoặc của các ca sĩ trẻ, trong đó đáng chú ý nhất vẫn là giọng ca Thanh Thúy, Tam ca Áo trắng và nhóm 5 dòng kẻ. Tuy nhiên, đâu chỉ các bạn trẻ mới thích thể hiện ca khúc này. Tác giả Hà Đình Nguyên từng kể câu chuyện cảm động: Một lần ông được nghe lão nhạc sĩ Hồ Bông hát "Mùa xuân đầu tiên". Nhạc sĩ Hồ Bông khi ấy đã ở tuổi 80. Và người được ông hát tặng ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" khi ấy cũng ở tuổi 80.

     "Mùa xuân đầu tiên hiện diện giữa hai mái đầu trắng như tuyết của buổi tối hôm ấy có lẽ chẳng bao giờ phai trong ký ức tôi" - Tác giả Hà Đình Nguyên đã kết luận như vậy.

Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

Thế Lữ, "Giây phút chạnh lòng"

     (Trích)
      Giao thừa năm nay tôi xin đọc cho quí vị nghe một bài thơ của Thế Lữ, bài Giây Phút Chạnh Lòng. Bài thơ này viết năm 1936 (lúc đó tôi mới 10 tuổi) để tặng cho Nhất Linh, tác giả tiểu thuyết Đoạn Tuyệt. Tôi nhớ là bài thơ này được in vào đầu trang tiểu thuyết Đoạn Tuyệt.
      Trong cuộc sống hàng ngày lâu lâu tâm mình có hơi chùng xuống một chút, hơi yếu xuống một chút, mất đi một ít năng lượng, giây phút ấy gọi là giây phút chạnh lòng.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

      Lời của người con gái nói với người con trai trong giờ phút người con trai từ giã để lên đường phụng sự lý tưởng của mình. Chuyện đã xảy ra nhiều năm trước và hôm nay người con trai ngồi nhớ lại.
      Đất nước hồi đó còn nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Những người thanh niên Việt Nam lớn lên bắt đầu có ý thức rằng đất nước mình không phải là một đất nước độc lập cho nên tâm tư họ có những xao xuyến, thao thức: làm thế nào cho đất nước mình được độc lập, tự mình làm chủ lấy mình?
      Trong khi đó guồng máy công an, cảnh sát dưới sự cai trị của người Pháp rất hùng hậu, rất vững mạnh. Họ tìm mọi cách để cho người Việt không có cơ hội đứng dậy để giành lại chủ quyền độc lập cho đất nước mình. Nhưng những thanh niên tân học thấy rõ ràng rằng người dân của một nước mà không làm chủ được đất nước của mình là chuyện rất nhục nhã, không những đối với quốc dân trong giờ phút hiện tại mà còn đối với tổ tiên của mình, tại vì tổ tiên của mình cũng đã từng tranh đấu để quốc gia có chủ quyền, có độc lập. Trong quá khứ có lần Trung quốc chiếm cứ đất nước Việt Nam đến một ngàn năm. Việt Nam trở thành lãnh thổ, một tỉnh của Trung quốc. Việt Nam trong thời ấy hoàn toàn bị mất chủ quyền đối với người Trung quốc.
      Vào lúc Thế Lữ viết bài này là Việt Nam đã bị nước Pháp chiếm cứ gần một trăm năm. Thế Lữ cũng như một số các bạn đã từng có cơ hội đi sang Pháp du học, đậu bằng cử nhân khoa học. Vì vậy những người đó biết thế nào là một nước có chủ quyền, một nước có độc lập nên khi về nước họ rất thao thức, muốn kết hợp bạn bè, tìm mọi cách để có thể có cơ hội giành lại chủ quyền cho đất nước.
      Người Pháp không cho phép ra những tờ báo hay in những cuốn sách và thành lập những tổ chức với mục đích gây ý thức cho quốc dân nhằm khôi phục lại nền độc lập. Nhưng các thanh niên đó đã tìm mọi đủ cách khéo léo để xuất bản những tờ báo, lập những nhà xuất bản sách để truyền bá gián tiếp những tư tưởng đó cho quốc dân. Họ chỉ cần một tờ báo thôi, một nhà xuất bản thôi, vậy mà trong vòng sáu năm, bảy năm họ đã gây được ý thức trong quốc dân và ảnh hưởng của họ đối với quốc dân rất lớn. Nhất Linh là một người đã từng bí mật tổ chức những đảng chính trị để hoạt động, đã từng bị người Pháp bắt bỏ vào tù và đã từng trốn qua Trung quốc để lánh nạn nên những điều mà Nhất Linh nói, những điều Thế Lữ nói là những điều phát xuất từ kinh nghiệm. 
Anh đi đường anh, tôi đường tôi.
Tình nghĩa tôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
      Người con gái nói với người con trai: anh đi cứu nước đi, em sẽ ở nhà. Người con gái này tên là Loan và người con trai tên là Dũng. Loan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống, cổ điển, có những lề thói không còn phù hợp với nếp sống mới nữa và nhất là tình trạng mẹ chồng nàng dâu đã làm Loan rất khổ sở. Loan là người đã từng được đi học trường Tây và đã học hết bằng trung học Pháp. Loan đã tiêm nhiễm tư tưởng mới của Tây phương về tình yêu tự do và không muốn bị ràng buộc vào đại gia đình. Nhưng vì hoàn cảnh, Loan bắt buộc phải lấy Thân mà không được lấy người yêu là Dũng. Tại vì Dũng có những tư tưởng cách mạng nguy hiểm nên cha mẹ Loan cấm Loan không được phép yêu Dũng, lấy Dũng và bắt Loan phải lấy Thân, một người con trai rất tầm thường.
      Hai vợ chồng có một đứa con nhưng chẳng may đứa con đó đã chết và bà mẹ chồng nghĩ rằng vì Loan không thể sinh đẻ được nữa nên đã bắt ép Loan phải đồng ý cho Thân cưới một người vợ lẽ, một người vợ thứ hai. Loan là một cô thiếu nữ được học trong trường Tây, được tiêm nhiễm tư tưởng tự do cá nhân của Tây phương mà phải sống trong khung cảnh gia đình phong kiến với những lề thói bắt buộc như vậy thì rất là đau khổ, cho nên Loan thường hay nhớ tới người yêu xưa là Dũng. Dũng thì thấy mình không còn có cơ duyên nào để có thể cưới Loan nên quyết tâm đi kháng chiến, đi cách mạng.
     Có một nguyên do thầm kín nữa là mẹ của Loan có mắc nợ mẹ của Thân và vì vậy phải hứa gả Loan cho Thân. Điều này Loan chỉ khám phá ra sau này khi mà sự việc bị đổ vỡ. Trong một cuộc xung đột, khi Thân xông tới để đánh Loan thì tai nạn xảy ra. Thân vấp té vào lưỡi dao Loan đang cầm để rọc giấy, lưỡi dao đó đâm vào trong bụng Thân và Thân chết. Lúc đó báo chí Hà nội loan tin: Cô Loan giết chồng! Cô Loan giết chồng! Rốt cuộc nhờ một cặp vợ chồng người bạn vận động các luật sư giỏi để cãi cho Loan nên cuối cùng thì Loan được tha bổng vì đây là trường hợp tai nạn chứ không phải là tội cố ý giết chồng. Lúc đó Dũng đang hoạt động cho cách mạng, bí mật đi công tác về thành phố và đã nghe tin có buổi xử án như vậy.
      Đêm đó là một đêm giao thừa, đêm đó là ngày cuối năm và người con trai không có gia đình đã bôn ba nhiều năm, sống rất vất vả, rất khó khăn, trong khi về công tác ở thành phố và được nghỉ ngơi một vài ngày trước khi tiếp tục lên đường thì nghe tin tòa xử trắng án cho Loan. Dũng nhớ tới ngày xưa khi hai người yêu nhau, và có ý muốn rằng bây giờ Loan được tự do rồi, thì mình sẽ tìm cách liên lạc với Loan để nối lại tình yêu ngày xưa. Dũng nhờ hai vợ chồng cô giáo Thảo liên lạc để do xem ý của Loan như thế nào? Đây là những ý tưởng tới với Dũng khi Dũng nằm trên căn gác một mình lạnh lẽo chiều cuối năm và nhớ lại những điều ngày xưa Loan đã nói với Dũng lúc hai người chia tay nhau.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Loan dùng giọng điệu rất là anh hùng để người con trai phấn chấn lên đường, để cho người con trai có thêm  nghị lực mà đi hoàn tất được nhiệm vụ của mình.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nếu chúng ta không có điều kiện thuận lợi thì em đi lấy chồng, còn anh đi làm cách mạng. Tại sao phải vương vấn với nhau cho nó khổ? Anh cứ đi đi và em sẽ âm thầm yểm trợ.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi ?
Tại sao phải bịn rịn, anh cứ đi và em cứ ở lại.
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Nưóc non đang cần những ngưòi con trai như anh.
Non nước đang chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Chinh phu là những người con trai đi đánh trận, đi làm cách mạng, đi đánh đuổi quân ngoại xâm.
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc,
Tôi có thương, tôi có tiếc nhưng vì lý tưởng mà tôi đành để cho anh đi và tôi thúc đẩy cho anh đi, anh là con trai, anh không nên bịn rịn.
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.
Hải hồ tức là sông biển, nơi người nam nhi, người con trai có không gian thênh thang để tung hoành. Ý nói rằng tình là cái vướng víu, nếu anh có chí hướng cao cả, anh phải giật đứt sợi giây tình để anh có không gian thênh thang mà làm công việc của người trai.
Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
Đường anh đi là con đường rất đẹp, con đường của cách mạng, con đường đem lại độc lập tự do cho đất nước và anh đã có chí bình sinh, đã có năng lượng của tình yêu nước thì anh sẽ không có sợ gì nắng, sợ gì mưa, sợ gì khó khăn nữa.
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Thân anh, đời sống của anh đã hiến cho lý tưởng phụng sự đất nước thì tại sao anh lại phải bịn rịn?
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ ?
Người con gái đem chút duyên tơ, sự thông minh và thiện chí của mình để giúp người con trai ra đi, rất vững vàng. Nhưng sức người có hạn, cô chỉ nói được như thế trong mười hai câu thôi, đến câu thứ mười ba thì người con gái chùng xuống.
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu đưa lạnh gió heo may.
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây.
Mình thấy tâm tình Loan trong bốn câu này bắt đầu chùng xuống và tất cả những thiện chí được diễn tả trong mười hai câu trên do đó đã tan thành mây khói.
Rồi có khi nào ngắm bóng mây?
Trên con đường anh đi, có khi nào anh dừng lại ngắm một bóng mây ở chân trời? Và một buổi chiều nào lành lạnh có gió heo may, đứng trên bờ sông xa vắng thì xin anh nhớ lại một chút là ngày xưa chúng ta đã từng yêu nhau.
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây,
Như vậy là chết rồi !
Xin anh cứ tưởng, bạn anh tuy
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề.
Vẫn để hồn theo người lận đận,
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.
Anh nên nhớ bạn của anh tuy đang bị kẹt trong một hoàn cảnh nặng nề, khó thở, nhưng mà trái tim của người đó vẫn luôn luôn theo dõi bước chân anh đi và cầu nguyện anh đạt thành chí nguyện. Đó là những lời mà cô nàng đã nói nhiều năm về trước và bây giờ anh chàng nhớ lại. Anh chàng cảm thấy cô độc, cảm thấy cuộc đời của người chinh phu lạnh lẽo, có những giây phút nhớ nhà, có những giây phút cần có sự ấm cúng, có những giây phút cần sự có mặt của một người thương. Giây phút đó là giây phút chạnh lòng.
Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức,
Buồn kia em giấu được ta đâu?
Người con trai ngay từ lúc đó đã biết rằng tuy người con gái đang dùng những lời khẳng khái để động viên mình nhưng kỳ thực trái tim của người con gái đang còn thổn thức lắm.
Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu,
Là sự vuốt ve, là lòng tốt của người con gái.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức
Anh biết rằng trái tim của em đang thổn thức, nhưng nỗi buồn kia của em, làm sao giấu được anh?
Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: hoa kia khóc hộ người.
Khi hai người chia tay, họ đứng ở dưới một gốc mai.
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Loan vịn vào cành mai và có những hoa mai rơi rụng xuống.
Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo : hoa kia khóc hộ người.
Hoa khóc chứ em đâu có khóc, Loan đã nói như vậy.
Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.
Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy,
Thấy cả muôn đời hận biệt ly.
Hai người nói nói, cười cuời nhưng tới giây phút biệt ly, người con trai phải đi thôi. Hai người không còn nói nữa, họ im lặng, họ im lặng trong chốc lát rồi thì người con trai bước đi. Giây phút đó là giây phút khó khăn nhất của cả hai người vì không có hy vọng gì để trong tương lai hai người có thể đoàn tụ với nhau được.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi
Tình trạng đất nước, tình trạng của chế độ gia đình phong kiến bắt buộc phải như vậy và không thể nào làm khác hơn được. Có hai vấn đề lớn của đất nước vào khoảng năm 1930.
-  Vấn đề thứ nhất : đất nước không có chủ quyền.
-  Vấn đề thứ hai : xã hội đang bị chìm đắm, đang bị ràng buộc trong những lề lối phong kiến, xưa cũ.
Dân trí chưa mở và những tập tục phong kiến chưa có thể tháo ra được là hai trở lực mà cả hai người đang phải chịu đựng. Người con trai ra đi hoạt động để thay đổi tình trạng, còn người con gái ở nhà có thể làm được gì hay chỉ tiếp tục làm nạn nhân cho những tập tục phong kiến của một gia đình cổ?
      Nhất Linh sanh vào năm 1905 và viết cuốn tiểu thuyết này lúc 31 tuổi. Cuốn này tên là Đoạn Tuyệt, muốn đoạn tuyệt với tất cả những cái gì cổ hũ, phong kiến của xã hội, của gia đình, nó đã làm cho con người không còn tự do. Thế Lữ đã viết bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng này để tặng cho Nhất Linh cũng vào năm đó, tức là năm 1936.
      Hồi đó họ chỉ là một nhóm nhỏ có khoảng sáu bảy người thôi [*]. Họ sanh ra vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, vào khoảng năm 1905, 1906 và 1907. Họ có cơ duyên được đi học và tiêm nhiễm được tư tưởng dân chủ, tự do của Tây phương và họ quyết định làm một cái gì cho đất nước. Một mặt họ muốn tổ chức những hội kín để vận động quần chúng đi tới chuyện lật đổ chánh quyền Pháp, một mặt họ biết rằng mật thám Pháp có khắp nơi, trong đó có rất nhiều người Việt đi theo Pháp để làm tay sai, để mà dọ thám họ vì vậy công việc của họ rất là khó khăn. Biết bao nhiêu người đã bị bắt, đã bị ở tù, bị xử tử vì đã muốn đứng dậy để làm cách mạng đuổi Pháp đi.
      Năm 1932, có một tờ báo sắp chết tên là Phong Hóa, họ xin lại giấy phép của tờ báo đó và với tài năng của nhóm, họ làm cho tờ báo đó trở thành một tờ báo rất nổi tiếng trong quốc dân. Họ viết những truyện ngắn, những truyện dài, họ làm những bài thơ, họ viết những bài khảo luận đánh động vào tâm trí của giới trẻ và tức khắc rất nhiều thanh niên trong toàn quốc đã trở thành độc giả của báo Phong Hóa (Bộ mới 1932, số 13).
      Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có người em trai tên là Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu Tứ Ly. Tứ ly là giờ xấu nhất trong ngày (khi mình muốn làm chuyện gì hay thì đừng làm vào cái giờ này. Anh chàng này lấy Tứ Ly làm bút hiệu của mình; tôi cứ lấy cái tên đó nếu rủi thì tôi chịu, tôi không mê tín như vậy) và Tứ Ly đã thật sự là một cây bút châm biếm tài tình. Tất cả những gì cổ hủ, tất cả những gì lỗi thời, tất cả những gì lố bịch, ông ta đều dùng ngòi bút của ông ta để châm biếm và cây bút Tứ Ly đã làm cho chánh quyền, nhất là chánh quyền Pháp, rất sợ hãi và đến năm 1936 chánh quyền Pháp bắt buộc phải đóng cửa tờ Phong Hóa.
      Sau đó mấy anh em tìm cách để ra một tờ báo khác nữa gọi là tờ Ngày Nay và kỳ này Nguyễn Tường Long bỏ bút hiệu Tứ Ly và lấy bút hiệu mới là Hoàng Đạo. Hoàng đạo là giờ tốt nhất trong ngày và họ tiếp tục cái lý tưởng của họ. Với những bài khảo luận, truyện ngắn, truyện dài, họ giúp mở dân trí ra và chỉ trong vòng bảy tám năm họ thay đổi sự suy nghĩ của cả một thế hệ thanh niên ở trong nước. Tôi lớn lên và đã bị ảnh hưởng tư tưởng và văn chương của Tự Lực Văn Đoàn khá nhiều.
      Một người con trai lớn lên trong cái không khí văn nghệ đó sẽ thấy rõ ràng mình chỉ có hai đường thôi, một là vâng lời cha mẹ đi cưới vợ và sống trong môi trường cũ, hai là bỏ nhà đi làm cách mạng. Một là làm như Loan, lập gia đình, sanh ra vài ba đứa con, cho nó đi học rồi chịu đựng tất cả những và những tập tục cổ; hai là làm Dũng, cương quyết bỏ ra đi để đi làm cách mạng. Nếu như không có một nguyên làm cho tôi trở thành một người xuất gia thì tôi đã đi vào một trong hai con đường đó và ngày hôm nay tôi đã  không ngồi ở đây. 
(...)
Nhất Hạnh[**]
23.01.2001 Làng Mai – Pháp quốc
-------------------------------------------
Chú thích:
[*] Gồm 7 người là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu.
[**] Bài mà blog HG đã đăng của cùng tác giả: Bông hồng cài áo 


               Giây phút chạnh lòng

                                Tặng tác giả "Đoạn Tuyệt"  
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong xum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?

Non nước đang chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.

Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?

Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây;

Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề,
Vẫn để hồn theo người lận đận;
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.

Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức,
Buồn kia em giấu được ta đâu?

Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: hoa kia khóc hộ người.

Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.
Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy,
Thấy cả muôn đời hận biệt ly.

Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
Để hồn mơ tới bạn quê hương.

Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ chẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương vẫn
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.

Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan.
Trong lúc gần xa pháo nổ ran.
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu...

Cát bụi tung trời - Đường vất vả
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?

                                       Thế Lữ (1936)

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Thư gửi anh già Noel

                                                                                                      Nguyễn Thị Hậu

       Anh Santa Claus thân mến,

     Từ hồi nhỏ em đã biết rằng , cứ mỗi mùa Giáng sinh là ông già Noel sẽ mang quà cho từng đứa trẻ ngoan, món quà như ước mong mà chúng đã viết thư gửi cho ông. Bao năm trôi qua, em không còn là một đứa trẻ mà sắp trở thành bà của những đứa trẻ, còn ông già Noel thì vẫn thế, chẳng thấy ai mừng ông thọ thêm tuổi nào, cũng không ai nghĩ ông già yếu đến mức không thể cưỡi tuần lộc đi nhong nhong trong tuyết trắng...Vì vậy, em nghĩ khoảng cách tuổi tác giữa ông và em bây giờ mong manh lắm, dù chắc chắn em còn trẻ hơn ông. Vì vậy, để cả hai chúng ta cùng vui vẻ trẻ trung em xin phép gọi là Anh mà không là Ông già Noel như xưa nay người ta vẫn gọi.


http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQWAHIe2ZUuxigC3a5pI64rHOF6nwf3NJSZji5JBHe3241V077U      Anh Santa Claus ạ, chắc anh sẽ hỏi tại sao đến bây giờ em mới viết thư cho anh, và không biết em sẽ xin anh món quà gì (tất nhiên, viết thư cho anh mà không xin quà thì đâu phải là thư cho ông già, à quên, anh già Noel, phải không ạ?). Là vì thế này. Hồi nhỏ (tuổi em bây giờ hay nói hồi nhỏ, hồi đó... anh thông cảm nhé!) tụi em chưa bao giờ có quà của anh, vì là thời chiến tranh, nếu thư gửi cho anh thì cũng thất lạc, mà anh nhận được thư thì cũng không thể vượt qua bom đạn mang quà đến cho tụi em. Vả lại, tụi em nghĩ quà của anh quý hiếm lắm... nên sau này lớn lên lấy chồng rồi cũng không dám viết thư cho anh, sợ lại tranh mất xuất quà của con.

     Mấy năm nay vào mùa Giáng sinh có nhiều anh già Noel lắm. Mấy ảnh cũng áo đỏ râu dài tóc trắng nhưng bụng không to, phóng xe vèo vèo đằng sau chở một thùng đầy những gói quà lớn nhỏ. Đến nhà ai là bấm chuông inh ỏi, trẻ em chạy ra chưa kịp chào hỏi gì bị dúi ngay gói quà vào tay rồi mấy ảnh rồ ga chạy mất tiêu. Bọn trẻ đứa phụng phịu đứa ngơ ngác, còn mẹ của chúng người thì hớn hở nếu có cả quà cho mẹ, người lại hầm hầm vì chỉ có mỗi quà của con. Nhờ vậy em mới biết bây giờ đàn bà ngoan cũng có quà của anh Santa Claus.

      Kiểm điểm lại cả cuộc đời làm vợ làm mẹ của mình, em tự thấy không đến nỗi nào: tiền kiếm đủ tối ngủ sớm, nuôi con bé thì khỏe mà lớn thì ngoan, chăm chồng lúc trẻ thì nho nhã về già thì oai vệ. Em luôn được bình bầu là phụ nữ hai, ba, bốn, năm giỏi... từ trong nhà ra ngoài đường đến chợ ở cơ quan. Nghĩa là, khiêm tốn mà nói, em có thể tự nhận mình là đàn bà ngoan anh ạ.
      
http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2013/12/14/tranh-vui-ong-gia-noel-phai-giam-can-ec3ebf.jpg      Vậy nên, năm nay em mạnh dạn viết thư này và mong được nhận quà của anh. Món quà đơn giản thôi, mang giá trị tinh thần nhiều hơn vật chất (như bọn trẻ nhà em vẫn nói “sống bằng niềm tin là chính còn tiền chỉ là phụ”). Đấy là, anh Santa Claus ơi, anh có thể mang lại “cho em một ngày một ngày thôi”, một ngày không phải lo lắng giá cả chợ búa, không phải nơm nớp vì thức ăn mất vệ sinh, một ngày không phải căng thẳng vì họp hành, một ngày không mệt mỏi vì công việc, không khổ sở vì kẹt xe hay tai nạn, không tủi thân vì một mình quần quật việc nhà... Và cũng trong ngày ấy, khi em lo lắng căng thẳng mệt mỏi khổ sở, thì ở nhà luôn có một ánh mắt chia sẻ một lời nói cảm thông, một bờ vai vững chãi một khuôn ngực ấm áp để em dựa vào, bình yên...

      Anh có thể mang đến cho em món quà nho nhỏ ấy được không, anh già Noel? Rất mong nhận được email của anh, và hy vọng sẽ sớm nhận được quà của anh.

      À quên, món quà này không phải tự em nghĩ ra mà là kết quả tham khảo những phụ nữ cùng trang lứa. Nếu anh mang đến món quà đó thì em sẽ chia cho nhiều người, mỗi chúng em chỉ cần một chút thôi cũng đủ vui vẻ để tiếp tục làm đàn bà ngoan anh ạ.
      Thay mặt các chị em xin cám ơn anh trước nha, anh già Noel!

Blog  HẬU KHẢO CỔ
Thư này gửi EMS 1 tuần trước ngày 24/12

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

Bạn ước điều gì vào đêm Giáng sinh?

hinh noel

 Bạn ước điều gì vào đêm Giáng sinh?
Nếu bạn có yêu thương, nếu bạn muốn sự yêu thương của mình đổi lấy hơi ấm cho những người xung quanh. Hãy thử ước vào đêm Giáng sinh đi!


hinh noel     Mùa của năm mới theo lịch phương Tây, chính là mùa của tuyết trắng xóa phủ kín các ô cửa sổ, chính là màu sắc xanh đỏ và những ánh đèn phát ra lấp lánh dọc các con phố, chính là cây thông Noel với đủ món quà lớn nhỏ đặt dưới gốc, người đi lại tấp nập, đâu đây là tiếng nhạc vang lên từ radio, người trong trang phục ông già Noel xuất hiện khắp nơi, bất cứ ai cũng đều cảm thấy vui hơn. Thay vì cảm giác thời gian trôi nhanh, chúng ta có thể chìm vào trong ấm áp, tận hưởng một mùa Giáng sinh an lành.
     Ở Việt Nam không có tuyết trắng, cũng ít nơi có cây thông Noel để chúng ta đặt xuống gốc những món quà dành tặng những người mà chúng ta yêu thương. Hà Nội vẫn lạnh, người qua đường vẫn vội vã, nhưng năm mới cận kề rồi, bạn có nghe thấy tiếng nhạc Giáng sinh phảng phất trong gió?
     Mỗi một sự kết thúc chính là cho chúng ta cơ hội để kiếm tìm hy vọng. Thời điểm chuyển giao vì thế mà cũng thiêng liêng hơn, xao xuyến hơn. Chẳng cần phải so đo xem ngày lễ này bắt nguồn từ đâu. Chỉ cần chúng ta có cơ hội để ước ao, và nhận lấy sự ấm áp trong mùa đông lạnh giá, chỉ như vậy là đủ.

     Hãy ước vào đêm Giáng sinh đi, ước những điều chưa thể thực hiện, ước những mục tiêu đang kỳ vọng, ước những giấc mơ còn dang dở, ước những người xung quanh được mãi mãi bình an, ước cho yêu thương được bền lâu vĩnh cửu. 
hinh noel     Hãy cứ ước, hãy cứ hy vọng, bởi vì khi đó, chúng ta sẽ có thêm niềm vui, hạnh phúc, càng có thêm dũng khí và kỳ vọng để bắt đầu những khởi đầu mới. Mặc dù những điều ước sẽ chỉ là những điều ước mà thôi, chẳng ai có thể giúp bạn biến nó ngay lập tức trở thành sự thật, nhưng chỉ cần bạn tâm niệm, và tin tưởng sẽ làm được, không phải đấy chính là điều ngọt ngào bạn tự dành tặng mình hay sao?
     Những cơn gió lạnh chào đón một năm mới an lành, tiếng chuông vọng ra từ các nhà thờ thiên chúa, tiếng kinh thánh râm ran cũng như một lời xoa dịu trong trẻo. Những hẫng hụt trong lòng vì luyến tiếc những gì đã qua sẽ vơi đi, cảm giác cô độc sẽ vơi đi, và chúng ta lại thấy mình trưởng thành lên một chút, biết yêu thương hơn một chút, đương nhiên  sẽ thấy hạnh phúc hơn.
     Chẳng cần ao ước những gì lớn lao, chỉ cần là điều khiến bạn cảm thấy hạnh phúc, dưới ánh đèn lấp lánh, dưới tiếng thánh ca, dưới cây thông Noel đầy ắp những hộp quà, ừ thì chúng ta lớn rồi, nhưng chúng ta vẫn cần những món quà cho riêng mình, đúng không?
     Nào, còn chần chừ gì nữa, đêm giáng sinh sắp đến gần, bạn sẽ ước điều gì?





Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2013

Bức tranh

                                                                                                        Truyện ngắn
                                                                                                                              Nguyễn Minh Châu

HG: Mình post truyện ngắn này- một người Bạn gửi- Mình dành tặng cho ngày 22 tháng 12... Nhưng ai đã đọc đến dòng cuối rồi mà còn bảo rằng truyện chỉ dành cho những người lính?!


        Tôi là một họa sĩ. Tôi không phải là một người viết văn. Tôi phải tự giới thiệu như vậy ngay từ đầu, không hề có ý muốn mong chờ hay cầu khẩn nơi các bạn đọc một thái độ rộng lượng. Ngay từ đầu, tôi phải nói vậy để tự dặn mình, tự ra lệnh cho mình, tôi viết chuyện này ra đây là viết cho tôi, cho một bức tranh tôi vừa vẽ xong. Thứ nữa, tôi viết cho một người thứ hai. Viết cho tôi hoặc cho một người thứ hai, một người thợ cắt tóc, thì những điều tôi sắp viết ra đây cũng chỉ là những lời tự thú.
        Không biết đã bao nhiêu tháng nay, từ cái hôm vô tình tôi đến cắt tóc ở cái hiệu đó và phát hiện ra anh thợ cắt tóc đó, tháng nào tôi cũng tự bắt buộc mình đạp xe hai ba cây số đến cắt tóc ở đó. Cũng đã không biết bao nhiêu tháng nay, tôi cặm cụi để hết tâm sức vẽ một bức tranh sơn dầu. Sơn dầu vốn là một chất liệu không phải thuộc sở trường của tôi, nhưng với cái nội dung đó, tôi không muốn dùng thuốc nước hay sơn mài. Thuốc nước, cái nghệ thuật chấm phá của thần bút cũng như không khí lấp lánh hư ảo của sơn mài không thỏa mãn tôi, – tâm trạng một họa sĩ muốn dùng ngọn bút vẽ để tự tìm hiểu mình, tự phán xét mình. Sáng nay tôi đã vẽ xong, và lúc này, tôi đang ngồi trước bức tranh tự họa của mình, tự đối diện với mình. Các bạn hãy thử tưởng tượng khuôn mặt của một người khách đang ngồi như bị đóng đinh vào chiếc ghế mộc của một cửa hiệu cắt tóc, với một tấm khăn choàng trắng buộc trùm kín ngực. Một cái mặt người rất lớn chiếm gần trọn bức tranh. Những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa cái đầu tóc tốt rợp như khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Khuôn mặt của người khách: một cặp mắt mở to nhìn trừng trừng vào luồng ánh sáng, một cái nhìn khắc khoải, bồn chồn, kinh ngạc và đầy nghiêm khắc. Phần bên dưới của khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: cái cằm hai bên mép bị phủ kín bởi bọt xà phòng. Không thấy rõ cái miệng, chỉ trông thấy một vệt lờ mờ mầu đen nổi bồng bềnh trên đám bọt xà phòng phồng to.
     Cái khuôn mặt đó thoạt nhìn thật xấu xí và lạ lùng, nhưng càng nhìn lâu càng giống tôi. Đó là khuôn mặt của mình, khuôn mặt bên trong của chính mình, tôi tự nhủ thầm. Đó là khuôn mặt của tôi lúc ngồi trên chiếc ghế mộc, đầu kê trên thành chiếc ghế được lót bằng một khúc gỗ lõm có lót da và đang ngước nhìn lên, đối mặt với người thợ cắt tóc.
     Để các bạn dễ theo dõi, tôi phải kể ngay rằng cách đây khoảng tám năm, tôi đang công tác ở một chiến trường cực kỳ xa xôi giáp biên giới miền Tây Nam Bộ.
     Khi nhận được lệnh trở ra miền bắc để cùng các họa sĩ ngoài Hà Nội chuẩn bị một cái triển lãm ở nước ngoài, thì tất cả tranh và ký họa của tôi vẽ trong mấy năm đã chất lên đầy một cái sạp lán giữa rừng căn cứ. Tôi lọc lấy chỉ độ một phần ba, vậy mà trên đường tôi đi ra, các đồng chí phụ trách các trạm giao liên trên từng chặng từng chặng một, phải thay phiên nhau cử một chiến sĩ của trạm đi theo “thồ” tranh cho tôi.
     Hôm đó, đoàn chúng tôi đi qua một vùng trên đất bạn nổi tiếng nhiều biệt kích, lại rất đói, cũng là cái “rốn” của bệnh sốt rét. Chúng tôi được nghỉ lại một ngày để dưỡng sức, lán của nhóm khách đi đường chúng tôi dựng ngay trên đầu một cái lán khác của anh em chiến sĩ trong trạm. Buổi trưa, tôi đang ngồi vẩn vơ ghi mấy cái dáng hòn đá, thân cây trước lán nghỉ của mình, thì trông thấy một người chiến sĩ nước da xam xám và cặp môi thâm sì đang leo mấy bậc dốc từ lán dưới đi lên. Người chiến sĩ đi thẳng đến trước mặt tôi ngồi xuống xem tôi vẽ. Rồi sau mấy câu chuyện làm quen, người chiến sĩ tha thiết thỉnh cầu tôi vẽ cho anh một bức chân dung.
      Tôi bỗng thấy tự ái. Tôi là một họa sĩ, chứ đâu phải một anh thợ vẽ truyền thần(!) Tôi từ chối khéo bằng cái mặt lạnh lùng. Người chiến sĩ tỏ vẻ phật ý, anh nhìn vào cái mặt lạnh lùng của tôi một thoáng rồi lẳng lặng quay lưng lại tôi, chậm rãi đi xuống dưới những cái bậc dốc.
     Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Thật một điều không ngờ, chẳng biết ai xui khiến thế nào mà chính người chiến sĩ trưa hôm qua lại “thồ” tranh cho tôi, chính lại là anh chứ không phải một người nào khác. Thật là phiền cho tôi quá!
     Vừa ra khỏi trạm, người dẫn đường đã báo cho khách biết trên dọc đường phải vượt thật nhanh khi leo một con dốc, sau đó là một con suối rất trống trải, đã có một vài đoàn bị bọn biệt kích bắn lén hoặc máy bay thám thính phát hiện. Cái nghề đi đường rừng nó là như vậy, nói một chữ chung chung là đèo, dốc, suối… nhưng ở thực địa mặt mũi chúng chẳng chỗ nào giống chỗ nào cả. Đi đến quá trưa, chúng tôi gập lưng lại, lội qua một quả núi đất không dốc lắm, mọc đầy cỏ tranh đang trổ bông rất đẹp và lác đác có những hòn đá tai mèo. Những vỉa đá tai mèo mọc lởm chởm giữa cỏ tranh mỗi lúc một dày, và khi quả núi đổ sang sườn dốc bên kia thì chỉ có rặt đá tai mèo đen kịt, chúng tôi vừa thở dốc ra cả bằng mũi, bằng tai, năm ngón tay bịt chặt lấy chỏm đầu từng hòn đá một mà lần xuống.
     Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. Có lẽ nó rộng đến năm trăm thước. Con suối chảy đến đấy thì phình rộng ra chảy lênh láng và réo lên ầm ầm trên một cái nền đá lởm chởm. Tuy đã được nghỉ một ngày nhưng sau khi leo qua được quả núi thì tôi đã thấm mệt. Tôi dò dẫm đi giữa khúc suối một cách vất vả quá, cứ dần dần bị tụt lại sau. Rồi chân tôi tự nhiên bị sỉa xuống một hẻm đá ngầm dưới nước. Tôi giơ hai tay lên trời chới với…
     Người chiến sĩ “thồ” tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nếu anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi. Tôi thở dốc. Mồ hôi vã ra như tắm. Hai mắt đổ đom đóm.
-   Đồng chí cố gắng lên – Người chiến sĩ vừa đi vừa động viên tôi – Tôi dìu đồng chí đi nhanh qua bên kia suối sẽ nghỉ. Nếu thằng L.19 đến, chúng mình cứ ngồi xuống. Nó chẳng thấy gì cả đâu!.
     Tôi không đủ sức theo kịp đoàn được nữa. Qua bên kia suối, người chiến sĩ lấy dầu con hổ bóp chân cho tôi, lúc ngồi nghỉ. Rồi bắt đầu từ đó, chỉ có hai người, anh và tôi, đi trong rừng. Tôi chỉ có thể đi người không. Người chiến sĩ vừa phải “thồ” đống tranh của tôi sau lưng (to và nặng gấp đôi một cái ba lô bình thường của khách đi đường) lại vừa phải mang thêm chiếc ba lô riêng của tôi trước ngực. Có lẽ tất cả đến sáu bảy chục cân. Mà người chiến sĩ có khỏe mạnh gì cho cam!
     Tôi không nói thì chắc các bạn cũng biết, ngay từ lúc người chiến sĩ đến gặp tôi để nhận mang cái bó tranh, tôi đã khó xử đến thế nào? Thế mà bây giờ, trên dọc đường, không những riêng cái đống tài sản của tôi mà cả chính tôi cũng đã trở thành một gánh nặng cho anh. Xưa nay tôi vẫn cho mình là một kẻ cũng biết tự trọng, và cũng biết suy nghĩ. Giá người chiến sĩ tỏ thái độ lạnh nhạt hoặc mặc xác tôi nằm lại một mình, tập tễnh đi một mình giữa rừng, thì tôi cũng thấy là cái lẽ phải. Xưa nay tôi vẫn quan niệm rằng: sống ở đời, cho thế nào thì nhận thế ấy. Cái cách cư xử của người chiến sĩ đối với tôi chỉ có thể giải thích bằng lòng độ lượng. Độ lượng? Thế nhưng tôi nhiều tuổi hơn? Tôi lại là một họa sĩ có tên tuổi? Xưa nay tôi chỉ mới thấy lòng độ lượng của kẻ trên đối với người dưới. Bây giờ đây thì chính tôi, một kẻ bề trên, đang được một người dưới tỏ ra độ lượng với mình.
     Tối ngày hôm đó, hai chúng tôi phải ngủ lại nửa đêm giữa rừng. Người chiến sĩ mắc võng cho tôi nằm rồi ôm súng ngồi gác bên cạnh. Nhưng làm sao mà ngủ được? Tôi đến ngồi bên anh, trên một phiến đá. Rừng đêm tối mò và đầy hăm dọa.
-    Tôi xin lỗi đồng chí về cái việc hôm qua… – tôi nói khẽ bên tai anh – Đến mai, thế nào tôi cũng phải vẽ đồng chí. Một bức, thật đẹp!
-   Giá có một chỗ nào có thể chụp ảnh thì tôi không dám phiền đồng chí nhiều vậy đâu! – Anh nói chậm rãi – ác một cái, ở trong rừng, chẳng có hiệu ảnh.
     Ngừng một hồi rất lâu, anh lại mới tiếp:
-   Vừa rồi tôi gặp cậu tân binh ở ngoài mới bổ sung vào. Mới biết, không hiểu sao gia đình tôi ngoài bắc lại nghe tin tôi hy sinh. Thư từ ở đây gửi về ngoài ấy mất một năm. Mấy năm nay tôi định gửi về nhà một cái ảnh theo cái điều ao ước của mẹ tôi từ lâu, mà không chụp ở đâu được!
     Tôi ngắt lời anh:
-  Vậy thì tôi sẽ vẽ đồng chí một bức thật giống. Tôi sẽ trực tiếp mang theo ra. Đồng chí hãy viết một lá thư nữa và ghi địa chỉ gia đình cho tôi. Tôi sẽ trực tiếp mang thư và “ảnh” đồng chí tới tận nhà…
      Tôi sốt sắng bàn với anh kiếm củi nhen lửa để tôi vẽ ngay, nhưng anh ngăn lại.
-   Đừng đốt lửa! – Anh nói.
      Sáng sớm hôm sau, anh đưa tôi đến trạm mới.
     Tôi hoàn thành bức chân dung người chiến sĩ “thồ” tranh chỉ trong khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tôi không thể có hoàn cảnh vẽ chậm chạp, rềnh ràng được. Bởi vì, ngay sau đó tôi lại phải theo đoàn lên đường đi chặng tiếp theo, và người chiến sĩ cũng đang có nhiệm vụ mang đồ đạc cho một đồng chí cán bộ cao cấp trong một đoàn khách đi vào trạm của anh. Cả hai chúng tôi đều vội, đến nỗi anh cũng chẳng kịp viết thư mà chỉ kịp ghi cho tôi cái địa chỉ. Rồi hai chúng tôi chia tay nhau.

     Thành công của nghệ thuật có đôi lúc là một cái gì rất cầu ơ, điều này có lẽ chỉ có anh em chúng tôi trong nghề với nhau mới thấu hiểu hết được. Chắc các bạn sẽ lấy làm lạ – cũng có thể chẳng lấy làm lạ – nếu được biết rằng cái “bức ảnh truyền thần” người chiến sĩ mà tôi đã vẽ vội vẽ vàng trong cái buổi mờ sáng ở trong rừng đó, về sau, hoàn toàn ngoài cả dự định của tôi, đã nghiễm nhiên trở thành một tác phẩm hội họa nổi tiếng của tôi, không những ở trong nước, mà cả ở nước ngoài nữa. Thật thế, chính bản thân tôi cũng không thể nào lường hết được quy luật đào thải của thời gian. Một điều thật đáng buồn là tất cả số tranh và ký họa mà tôi đã tốn biết bao công phu mang từ trong chiến trường ra chuyến đó, chẳng có một bức nào còn lại được, mặc dầu một số lớn đã được bày triển lãm, đã được in rải rác trên báo. Trong khi đó, “bức ảnh truyền thần của người thợ vẽ” thì lại còn lại mãi mãi, như một cái “đinh” của sự nghiệp sáng tác của tôi, trong những năm chiến tranh.
     Đáng lý ra tôi không bao giờ đến cắt tóc ở cái hiệu ấy. Nhà tôi cũng như cơ quan tôi làm việc đều ở phía cuối thành phố. Vậy mà cái hiệu cắt tóc chẳng có gì đáng phải chú ý đó ở tận đầu phía tây bắc thành phố, lại nằm trên một phố nhỏ khuất nẻo có lẽ là lần đầu tiên tôi đặt chân đến. Sáng hôm đó, một buổi sáng mùa hè, tôi có công việc đến một cơ quan, nhưng người tôi định tìm gặp chẳng may lại đi vắng. Tôi dắt xe ra, lượn vòng vèo quanh mấy khu phố cổ phía bắc để ngắm nhìn những mái ngói, những mảng tường. Tôi lang thang với con mắt nghề nghiệp khoảng vài tiếng đồng hồ. Buổi sáng đó, nếu trong túi tôi có một mẩu bút chì và cuốn sổ ký họa thì sau đó không bao giờ tôi nảy ra cái ý định đi cắt tóc. Tôi bước vào một cửa hiệu có hai ghế nhưng cả hai đều đã có khách. Tôi liền quay ra, dắt xe men theo một bức tường rất dài. Cuối bức tường, có một cái quán bán nước mở ngay bên một cái ngõ, một đám đông thanh niên đang ngồi nhẩn nha uống nước chè chén và hút thuốc. Bên cạnh quán nước lại thấy một cái hiệu cắt tóc khác. Chẳng có gì đáng có thể được gọi là “cửa hiệu” cả: kề sát bên mái là quán nước, một mảnh vải ni-lông tăng bộ đội che lấy một khoảng đất bằng bốn chiếc chiếu nằm hơi thụt sâu xuống vương vãi đầy những lọn tóc. Một chiếc ghế mộc cũ kỹ, có lẽ do người thợ cắt tóc tự đóng lấy, trên thành ghế vắt một chiếc khăn choàng trắng khá sạch sẽ. Quán cắt tóc vắng thợ. Chỉ thấy một bà cụ già đang cầm chổi quét những lọn tóc vun vào một góc. Tôi dựng xe đạp vào bức tường phía ngoài vỉa hè, bước vào. Cái quán cắt tóc thoạt trông vẻ ngoài chẳng có gì hấp dẫn nhưng điều khiến tôi có cảm tình ngay là trên bức tường, phía trên tấm gương soi, có dán bức tranh nổi tiếng của tôi. Đó chính là bức ký họa chân dung người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho tôi tám năm về trước.
     Lúc bà cụ già ngẩng lên, tôi mới biết đó là một người lòa. Nghe tiếng chân của tôi bước vào, bà cụ cầm chiếc chổi ngẩng lên, từ từ hướng cặp mắt trắng đục về phía tôi. Tôi nhận thấy một nét rạng rỡ, hoan hỉ đang từ từ lan ra trên khuôn mặt bà:
-  Mời ông ngồi chơi một lát. Cháu nó uống chén nước xong là bắt tay làm cho ông ngay! Thưa, ông chỉ đợi cho mấy phút thôi ạ!
     Tôi đáp “vâng” và đến ngồi vào chiếc ghế. Bà cụ lại tiếp tục quét, nhưng có lẽ vẫn còn áy náy sợ khách bỏ đi mất nên lại ngẩng lên:
-   Có báo mới cháu nó để trên bàn. Ông coi đi!
     Tôi giơ tay cầm tờ báo trên hàng chai lọ và giở ngay trang tư có đăng nhiều tin tức thế giới.
     Tờ báo hàng ngày có một số tin mới. Tôi không phải loại người say mê môn bóng đá đến mức quá khích như một số người khác, nhưng cái bài tường thuật trận đấu bóng trên sân cỏ ở một thủ đô bên châu Mỹ La-tinh khéo quá, đã hấp dẫn tôi đến mức người thợ cắt tóc trở về lúc nào tôi không biết, tôi cứ để mặc cho người thợ cắt tóc quấn vào ngực chiếc khăn choàng, rồi dùng lược chải qua mái tóc, rồi bấm thử tông-đơ tanh tách bên tai, rồi hình như anh ta kêu tôi để tóc tốt quá lâu không chịu cắt. Cho đến lúc anh ta dùng hai bàn tay xoay cái mặt tôi cho thẳng và hất cái mặt tôi ngẩng cao lên hơn một chút, thì tôi mới chịu buông tờ báo.
- Bác cắt như cũ chứ?
- Vâng.
     Trước mặt tôi, kề ngay sát, lúc bấy giờ là một anh thanh niên trạc ngoài ba mươi. Anh ta có một khuôn mặt mà hình như tôi đã từng gặp, nước da mai mái của người đã từng ở rừng. Một chiếc sơ mi bằng vải phin trắng ngả mầu cháo lòng và chiếc quần bộ đội cũ vá một vài miếng đang bốc lên một thứ mùi sin sỉn, mùi quần áo của những người thợ cắt tóc.
     Tôi có thói quen không sửa được, thích trò chuyện:
- Anh làm ở tận trong cái ngõ này chắc ít khách?
- Cũng đủ lắm. Phần nhiều khách quen. Nhưng hồi này cái nghề chúng tôi làm ăn cũng khó khăn.
     Tôi cãi:
- Khó khăn là những thứ nghề khác, những công việc khác, ví như những người mua gian bán lận, chứ như cái nghề của anh, thời nào mà sợi tóc chẳng mọc dài ra, người ta bao giờ mà chẳng phải cắt tóc?
- Nhưng bác tính, khi người ta làm ăn dư dả, có đồng tiền, thì mới năng trang điểm, tô vẽ cái răng, cái tóc chứ?
- Vậy thì tôi chịu anh. Anh làm nghề này lâu chưa?
- Đã gần mười lăm năm. Từ lúc tôi còn đi học và chưa đi bộ đội kia.
     Tôi có tính hay lãng quên những việc không đáng quên một chút nào, nhưng ông trời vốn dĩ phú bẩm cho tôi một trí nhớ đôi lúc chớp lóe lên, có thể nhìn thấy rõ một ngày trong đời của tôi hồi sáu bảy buổi, như nhìn vào một bức ảnh cũ. Thế là tôi đã nhận ra được người thanh niên làm nghề cắt tóc đó. Đúng, chính là người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho tôi, tám năm về trước. Ôi chao, lúc ấy, tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc. Tôi biết nói thế nào để các bạn có thể cảm thụ được cái cảm giác phạm tội của tôi lúc ấy nhỉ? Có bao giờ bạn dọn nhà không? Khi người ta phải thay đổi chỗ ở, có những thứ đồ đạc tưởng mất biến từ lâu, lục lọi, tìm kiếm khắp vẫn không thấy, thì tự nhiên lòi mặt ra tận trong góc tủ, dưới gầm giường. Có những thứ đồ vật vô nghĩa. Có những thứ nhắc tới một chút kỷ niệm đẹp đẽ. Có những thứ gợi lên một câu chuyện chẳng hay ho gì, tưởng đã quên hẳn cái chuyện đó thì bây giờ cái đồ vật lại từ xó xỉnh, bụi bặm, từ trong xó tối từ từ bò ra, cái vật vô tri lại thủ thỉ nói chuyện với anh, khiển trách anh, lên án anh.

     Tại sao ngày ấy tôi đã không đưa “tấm ảnh” đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Mà tôi vẫn còn nhớ, tôi đã hứa với anh và cả với tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ? Trong cái đêm ấy, khi tôi ngồi bên anh trên phiến đá giữa khu rừng bên nước bạn, giá có phải chạy qua làn đạn của địch, hay băng qua ngọn lửa, thì tôi cũng quyết định sẽ vượt qua, để đưa tấm hình về trao tận tay những người trong gia đình anh, để đền đáp chút ít tấm lòng độ lượng quá lớn lao nhưng lặng lẽ mà anh đã đối xử với tôi. Lúc ấy, mắt tôi đã rưng rưng khi nghe kể chuyện ở ngoài này, bà mẹ anh đang nhầm tưởng anh đã hy sinh. Và buổi sáng hôm sau, lúc chia tay nhau, tôi lại còn hứa đi hứa lại, để cho anh trở về thật yên tâm và tôi lại còn nhớ, tôi đã nắm tay nhiều lần không nỡ rời, tôi ôm anh, rồi thật là giả dối chưa, tôi lại còn hôn anh nữa, trước khi lên đường đi chặng tiếp. Từ bữa đó, tôi đi bộ ròng rã gần ba tháng thì ra đến Hà Nội. Ngày đó, khi đặt chân về đến Hà Nội, tôi vẫn còn mang ý định đến thăm nhà anh ngay, và mang theo bức vẽ đến. Nhưng chỉ sau một tuần lễ, tôi đã thiết lập được với cái xã hội hậu phương chung quanh những mối quan hệ mới, cái không khí chiến trường tự nhiên nhạt nhòa đi, cái mối nhiệt tâm của lúc còn ở trong đó vơi bớt đi – không, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh! Tôi phải nhận rằng, chỉ sau một tuần lễ, được bè bạn sành sỏi nhất trong nghề đánh giá bức ký họa thật cao, tôi liền lờ quên cái người mẹ đang ôm ấp mối đau khổ vì ngộ nhận con trai đã hy sinh đang ở ngay trong thành phố, tôi liền đóng gói bức ký họa chung với những bức tranh đem đi dự triển lãm Việt Nam ở nước ngoài. ỷ vào ngày giờ đi quá cấp bách, tôi cũng không kịp nghĩ đến việc tới thăm bà mẹ anh nữa!
     Có những lúc con người ta không còn chỗ trú nấp. Đó là cái lúc ngồi ngửa mặt lên chiếc ghế, tôi nhận ra anh một cách chắc chắn, biết không thể nào nhầm được nữa! Tôi chỉ còn mong anh không nhận ra tôi. Không, nhất định anh phải nhận ra chứ, khuôn mặt tôi gần mười năm nay chụp ảnh thấy ít thay đổi lắm. Mà cái mặt mình chỉ cách mặt anh có mấy tấc. Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỷ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?
" Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai mắt kia! Bây giờ thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp chí hội họa của khắp các nước. Người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cạnh mấy chữ: “Chân dung chiến sĩ giải phóng”. Thật là danh tiếng quá!"
" Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần, công việc nghệ sĩ là phục vụ cả một số đông người, chứ không phải chỉ phục vụ một người! Anh chỉ là một cá nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức “chân dung chiến sĩ giải phóng” đã đóng góp đôi chút vào công việc làm cho thế giới hiểu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm!"
A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả… Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi. Anh cút đi!
     Giá lúc đó, sau khi cắt tóc xong, anh bảo tôi hãy ngồi lại để hỏi cái món nợ tám năm về trước, thì có thể sau đó tôi không trở lại cái quán cắt tóc ấy nữa, cũng nên. Thế nhưng anh vẫn làm như không hề bao giờ quen biết tôi. Khi tôi ra về, anh chào tôi một cách thân mật, nhã nhặn sau khi nhận tiền cắt tóc.
     Đã gần một tháng rưỡi, tóc tôi dài quá, mà vẫn chưa cắt. ít hôm tôi lại đạp xe trở lại ngôi quán đó, nhưng vừa chớm đến nơi thì tôi đã cắm cổ đạp thật nhanh, cố giấu mặt đi. Mỗi lần đạp vụt qua khỏi cái quán cắt tóc ấy, tôi phóng hẳn sang một đoạn phố khác, cứ sợ đôi mắt người thợ cắt tóc nhìn theo, nhưng trong bụng lại cảm thấy thất vọng. Tôi lại mon men đạp trở lại, y như một kẻ đã trở nên lẩn thẩn, tôi đến ngồi ở một cái quán nước trước cổng một cái bệnh viện bên kia đường, cách cái quán cắt tóc một quãng. ở đấy, khách uống nước bao giờ cũng đông. Tôi ngồi lẫn vào. Tôi gọi một chén nước, vừa uống vừa nhìn sang. Lần nào tôi cũng trông thấy anh, nhưng có lần thấy bà mẹ anh, có lần không.
     Một bận, đến hai ngày liền tôi không thấy anh thợ của tôi làm việc. Cái quán cắt tóc bỏ vắng hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba vẫn thế. Và lại thấy một người đàn bà ra dọn dẹp, chứ không phải bà cụ già lòa như mọi ngày. Tôi chạy sang. Chiếc ghế cắt tóc không còn nữa. Chỉ còn chiếc gương và mấy cái chai lọ. Người đàn bà hỏi tôi:
- Bác đến cắt tóc?
- Vâng.
- Nhà em mấy hôm nay đang dọn cái chỗ làm mới ở phố ngoài kia. Ngày mai xong. Xin mời bác đến.
     Vợ anh có vẻ trạc tuổi gần ba mươi. Một khuôn mặt đàn bà hiền lành. Chị vừa nói vừa bóc tấm tranh của tôi ra. Tôi gợi chuyện.
- Bức tranh đẹp đấy chứ, chị nhỉ?
     Người đàn bà hơi đỏ mặt, cuốn tấm tranh lại một cách cẩn thận. Lâu sau mới đáp:
- Anh nhà tôi bảo: Anh bộ đội trong tờ tranh này chính là người ta vẽ anh ấy. Hồi anh ấy còn ở bộ đội trong B. Cho nên mới mua về treo.
- Anh ấy nói với chị thế?
- Vâng.
- Hôm trước tôi đến cắt tóc ở đây có thấy một bà cụ…
- Là mẹ anh nhà tôi. Thế ra bác là khách quen?
- Vâng. Bà cụ bị tật lâu chưa?
- Thưa đã lâu. Đã chín năm nay.
- Vì sao?
- Bà cụ lòa đi cũng vì anh nhà tôi. Ngày đó bỗng nhiên có tin ra nhà tôi hy sinh. Bà cụ đâm ốm. Anh ấy là con một. Bà cụ nhớ anh ấy, nửa đêm cũng trở dậy đi lang thang. Cứ khóc hoài…
- Bà cụ lòa từ năm nào, chị biết không?
- Từ 69.
- Từ tháng mấy?
- Tôi cũng không nhớ thật rõ, có lẽ khoảng giữa năm.
     Tôi ra đến Hà Nội vào đầu tháng ba năm ấy. Nếu tôi là một người tử tế ra thì không khéo bà cụ không bị lòa, không những thế mà tôi còn có thể làm cho bà cụ khỏe ra! Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù lòa?
     Mấy lần tôi đã bước vào một cửa hiệu cắt tóc sang trọng ngay trong phố nhà tôi mà trước đây tôi vẫn thường cắt, nhưng lại lấy cớ này cớ nọ, quay trở ra. Mấy lần tôi đã định “tẩu thoát”. Nhưng chính tôi lại bắt giữ tôi lại. Tôi lại kiên nhẫn tự thuyết phục mình một cách xử trí êm nhất: đừng bao giờ đặt chân đến trước mặt người thợ cắt tóc và bà mẹ anh ta nữa. Người ta đã dời cái quán đến một phố khác. Lần trước, anh ta đã nhận ra cái mặt của anh rồi. Thì lúc này là cơ hội “tẩu thoát” êm nhất. Cái người săn đuổi mình đã rẽ sang lối khác thì mình lại cũng rẽ vào đấy làm gì? Nhưng anh có đuổi theo tôi đâu? Đấy là tôi muốn tự nguyện đến nạp mình, cho lương tâm.
     Tôi lại tiếp tục dụ dỗ: sau hàng chục năm ở bộ đội, anh ấy lại trở về làm nghề cũ. Chắc hoàn cảnh kinh tế của gia đình cũng khó khăn. Tôi nghĩ đến việc hay là vay mượn gom góp một số tiền lớn, cái số tiền mà tôi đã thu được nhờ bức ký họa chân dung kia, bí mật gửi cho anh. Vẫn không được! Tôi vẫn không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cái mặt mình.
     Tôi lại đạp xe đến gần cái nơi anh mới dời đến. Chỗ đó là đầu một cái ngõ ăn ra một đường phố nhỉnh hơn phố cũ. Chỗ làm mới cũng xoàng xĩnh như chỗ cũ, chỉ hơn trước có một bức mành che. Thỉnh thoảng tôi lại đạp xe qua, đá cái mặt về phía bức mành, nghe tiếng tông đơ rỉa tanh tách, và liếc nhìn cái dáng người thanh niên đang đứng cắt tóc phía sau. Rồi lại phóng xe vút qua đi.
- Cái anh thợ cắt tóc ở đây dời chỗ làm rồi, phải không bà? – Tôi vờ hỏi bà chủ quán nước ở cái ngõ cũ trong khi ngồi chen giữa một đám đông khách uống nước, hút thuốc và kháo chuyện vặt.
- Anh ấy dời phố ra ngoài. Cách mấy ngõ thôi. Chắc ông là khách quen?
- Thưa vâng.
- Cái thằng T. Cắt tóc, số nó nhờ được con vợ! – Một người khách bình phẩm.
- Thì còn phải nói! – bà chủ quán cũng nói xen vào – ngày xưa khi anh ấy còn ở bộ đội trong B, tuy chỉ là chỗ láng giềng thôi, nhưng cô ấy chăm sóc bà cụ lúc ốm đau chẳng khác con cái trong nhà. Về sau anh ấy trở về cũng vì cảm tấm lòng mà lấy.
- Ông trời sinh ra con người cũng lạ. Có người tốt vậy, có đứa đểu cáng lật lọng hết chỗ nói.
     Cái đầu tóc tôi đã tốt quá, ngứa không chịu được! Mà tại sao cứ muốn giở chứng, cứ tự đem mình ra mà hành vậy? Tại sao lại cứ muốn tự dẫn xác đến cái quán ấy cơ chứ? Ngay buổi sáng đó, tôi đạp xe trở về dưới phố nhà tôi, lập tức đến cắt tóc ở cái hiệu quen đã mấy năm nay. Thật là thoải mái, dễ chịu. Trời lại nắng nhạt, cũng thật dễ chịu. Cái hiệu quen sạch sẽ, thơm phức. Bác thợ kêu ầm lên chắc hồi này nhà họa sĩ bận lắm, bận lắm, mấy lần đến rồi lại không có thì giờ cắt, để cho cái đầu trở thành một khóm rừng! Bác thợ quen lại còn khuyên tôi nên làm việc có điều độ. Tôi lại vui vẻ (đấu hót) với bác như mọi lần trước kia. Thật là vui. Phải nói đây là người thợ cắt tóc giỏi nhất thành phố, làm rất cẩn thận, lại rất quý tôi. Được cắt tóc cho một nhà ông họa sĩ! Bác cẩn thận, cân nhắc từng nhát dao, nhát kéo. Bác nâng niu cái đầu, cái mặt tôi. Những ngón tay sờ đụng vào cái đầu, cái mặt tôi như đang sờ đụng vào một vật rất quý.
     Thế nhưng tôi cũng trở lại cắt ở đấy chỉ có một lần đó. Tôi quyết định phải trở lại cái quán kia. Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không được lẩn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn. Tôi quyết định phải trở lại đấy vào buổi sáng, và đến thật sớm, lúc chỉ có tôi và anh. Để cho anh có hoàn cảnh thuận tiện chỉ vào cái mặt tôi mà hỏi: “Bác là cái nhà ông họa sĩ ngày xưa đấy ư? Bác đã làm cho bà mẹ tôi khóc hết nước mắt để trở thành mù lòa như thế kia? Được rồi, vậy thì xin mời ngồi vào đây!
      Bên trong bức mành vẫn chỉ thấy bày chừng ấy thứ đồ đạc: chiếc ghế mộc, chiếc khăn choàng sạch sẽ vắt trên thành ghế, chiếc bàn con để bánh xà phòng thơm và mấy thứ chai lọ, tấm gương soi mặt khách, phía trên tấm gương vẫn dán bức chân dung người thợ cắt tóc tám năm trước. Anh thợ của tôi ngồi quay lưng ra, một chân vắt lên thành ghế, đang ăn một vắt xôi gói trong cái lá bàng. Bà mẹ anh cũng có mặt, ngồi xổm cầm chiếc vồ đập những hòn gạch vỡ nèn chặt xuống nền đất. Bà cụ lại ngước mắt lên nhìn tôi như lần trước khuôn mặt đờ đẫn và hoan hỉ:
- Thưa ông đến cắt tóc?
- Vâng ạ!
     Tôi có cảm giác hồi hộp của một anh bộ đội giữa trận đánh đồn vừa vượt qua lớp lớp hàng rào để bám được vào cái đột phá khẩu. Lúc ban nãy, khi đạp xe vừa chớm đến quãng đường phố ngang với bức mành, chỉ chút xíu nữa là tôi đã nhấn mạnh chân vào bàn đạp cho bánh xe lăn thật nhanh như mọi lần, “Thưa ông đến cắt tóc?”, “Vâng ạ!” một lần nữa, nếu tôi gieo thêm một chút xíu yếu đuối trên cái mặt cân tiểu ly vô hình, tôi sẽ không đáp “Vâng ạ!” mà có thể trả lời: “Không ạ” rồi phóng xe đi thẳng như mọi lần.
     Anh thợ cắt tóc nghe mẹ lên tiếng mới quay người lại. Tôi vừa kịp nhận ra được từ nơi cặp mắt vẫn còn trẻ của anh chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt. Ngay sau đó anh lại trở lại cái vẻ mặt và cử chỉ từ tốn, điềm đạm, ân cần của một người thợ cắt tóc đứng đắn và yêu nghề.
     Da mặt tôi tự nhiên dày cộm lên.
- Mời bác ngồi!
     Tôi cố trấn tĩnh để khỏi run lập cập, bước tới ngồi vào cái ghế gỗ như một cái ghế tra điện.
- Bác vẫn cắt như cũ?
- Vâng.
     Bàn tay người thợ ấn cái gáy tôi xuống. Tôi trông thấy hai ống quần quân phục đã cũ kỹ và đôi bàn chân xỏ trong dép cao su. Bà mẹ anh vẫn ngồi bên cạnh cái ghế cắt tóc, bàn tay dăn deo vừa sờ soạng trên mặt đất, vừa cầm chiếc vồ nện lên những viên gạch chan chát, nhát trúng nhát trật.
     Từng mảng tóc trên đầu tôi rớt xuống. Tôi có cảm giác tôi đang ngồi cho người thợ giải phẫu não, mà không đánh thuốc mê.
     Rồi người thợ cắt tóc, một tay nâng ngửa cái mặt tôi lên, một tay cầm lấy con dao nhỏ sáng loáng. Tôi khẽ liếc mắt thấy lưỡi dao sắc lẹm, vậy mà anh vẫn đem mài đi mài lại trên một tấm da. Tôi khắc khoải nằm ngửa mặt chờ. Tôi khẽ thử động đậy cái gáy, nó như đã bị chốt vào miếng gỗ lõm có lót da. Ngay trước mặt tôi vẫn là cái bộ mặt thật của tôi vừa được lột khỏi ra cái mặt nạ hàng ngày, đang phản chiếu trong tấm gương.
Hàng ngày anh vẫn nói đùa một cách độc đáo với bạn rằng: tạo hóa nặn ra muôn loài, mỗi loài bằng một thứ bột nhão riêng khác nhau. Xong rồi mỗi thứ thừa một tý, đem gộp chung tất cả lại, để nặn ra anh?
Có lẽ thật thế, trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ?
Bây giờ trước mặt tôi, anh nghĩ thế nào về cái luật công bằng ở đời của anh: cho thế nào thì nhận thế nấy?
Tôi xin nhận đã gây nên đau khổ cho bà mẹ anh. Tôi đã lừa dối anh. Tôi đã thu thêm được tiền của và tiếng tăm trên sự đau đớn của anh. Bây giờ anh cứ trừng phạt tôi. Anh xử tôi thế nào cũng được!
Không bao giờ! Nếu tôi xử phạt anh, nếu tôi thực hiện cái quan niệm về luật công bằng ở đời của anh, thì cái hôm đó, tám năm trước đây, khi quay lại đón anh giữa suối, tôi đã xốc ngược anh lên rồi vứt tõm vào khúc suối giữa bãi đá tai mèo rồi!
Lần này anh lại đối xử với tôi như lần trước đây?
Phải”.
Anh cũng không trách mắng, chỉ trán chỉ mặt tôi?
Không! Anh cứ yên tâm. Trước sau tôi vẫn coi anh là một nghệ sĩ tài năng đã có nhiều cống hiến cho xã hội”.
Tôi vẫn thường gặp mặt anh ở ngoài đường luôn luôn đấy chứ! Một lần tôi đứng xem anh ký họa khu phố cổ. Một lần tôi đến xem phòng trưng bày tranh của anh. Một lần khác, tôi đi theo mấy người bạn làm xưởng vô tuyến truyền hình đến quay chỗ xưởng làm việc và gian phòng riêng của anh. Anh không nhận ra được tôi đấy mà thôi!"
Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi!
Không”.
Tôi có phải cút khỏi đây không?
Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết đấy!
     Phải, giá thử lần thứ nhất tôi đến, hoặc lần thứ hai trở lại, và các lần sau nữa, mà người thợ ấy nổi giận đuổi tôi ra khỏi ngôi quán, thì chắc chắn tôi không đủ thì giờ nhìn kỹ cái mặt mình đến như thế. Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng người thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg64A_RX7JuzP2-PBO3ri3MFKhsn35UUm9f1ut0Tgk4cTtTXKWF2b-2zr0kcxGG48aNDzT6JLYMIPPE_iUK7A8-h9YCoSpBcrnhR2vvGiTt5lC0B7CqQJ17vmUqDKrC1HlxOWrhl33d73A/s400/27-Buuchi.jpg       Bây giờ thì cái tác phẩm mới của tôi đã hoàn thành. Tôi đang đối mặt với chính mình, để viết những dòng này, như những lời chú giải cho một tác phẩm hội họa thể hiện một cái mặt người rất lớn: những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và một nửa mái tóc đã cắt, thoạt trông như một phần bộ óc mầu xám vừa bị mổ phanh ra. Phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ: dưới cằm và hai bên mép phủ kín bọt xà phòng. Không trông rõ miệng, chỉ thấy một vệt mầu đen lờ mờ nổi bồng bềnh trên những đám bọt xà phòng. Và nổi bật trên cái khuôn mặt là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.



---------------------------------------------------------

Từ trên xuống, các bức tranh chân dung dùng để minh họa - theo thứ tự-thuộc các tác giả:
-  Danh họa Picasso
-  Họa sĩ Trần Ngọc Bảy
-  Họa sĩ Bửu Chỉ