Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Những hạt mầm định kiến

Nguyễn Ngọc Tư
Vào một ngày mưa gió ủ ê không hiểu sao chị thủ thư mỉm cười nói có mấy cuốn sách này mới về hay lắm. Ngó qua một lượt thì thấy nhiều cuốn của Quỳnh Dao và nhân tướng học. Truyện chị Dao quá sức chịu đựng của mình, riêng nhân tướng học thì mình xếp vào dạng không nên đọc, mình nhìn thấy sự rủi ro xảy ra khi mình có thể ghét bỏ một người nào ngay khi vừa gặp mặt, chỉ vì một nốt ruồi nằm đâu đó trên mặt anh ta.
     Và mình sẽ day dứt dài dài nếu như vì tướng pháp của chân mày, cái mũi, giọng nói… mà mình quay lưng bỏ đi một nước.
Tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt, tướng tốt xấu là ở cái tâm con người. Chị thủ thư chắc vừa nghiền ngẫm sách xong, liên hệ với một số thí dụ ngoài đời, rồi nên khoái chí đọc vanh vách. Cái ý nghĩ ta có thể đọc được người đời cũng khá là hoan lạc. Mình bất ngờ trước việc chị ấy hôm nay nói quá hai mươi âm sắc, đến nỗi chỉ cười cười. Trong lòng mình mầm nghi kỵ mọc đầy, chỉ cần tưới tắm loại tư tưởng tướng pháp này, bảo đảm một phút sau sẽ đâm chồi nảy lộc những thứ thành kiến cuộc đời. Mà, thứ đó mình đã thừa mứa.
Có lần đi xem mắt một người giúp việc giùm bạn, lúc về mình chỉ nhận xét cụt ngủn, “có sơn móng tay”. Bốn chữ đó làm cơ hội làm việc của chị kia vụt tắt. Một người sơn móng tay thì có chịu được lam lũ không, và lam lũ nghèo túng sao lại sơn móng tay, là ý nghĩ bọn mình gặp nhau ở chỗ: Sơn móng tay là đặc ân của người nhàn hạ, sao chị ta có thể... Và đôi khi cảm thấy khó khăn khi đối thoại với người có màu son chói, hoặc cổ áo trễ tràng, hoặc giọng nói lanh lảnh cao, hoặc cái cười the thé… mình tự hỏi, cái gì đang ngăn cản, đang che mắt, đang trì níu ?
Mà định kiến có đáng tin đâu, nhiều lần nó đã nhiều lần phản bội mình. Gần nhất là đi lạc đường, hỏi một anh hầm hố chằng chịt hình xăm trên người và anh nở nụ cười nhăn nhở nói đi Vĩnh Xương thì đi hướng kia. Mình không tin, chui vào một con đường bị mưa bao phủ, lúc quay lại ngã ba đó ướt như chuột lột, thấy anh nọ vẫn ngồi chéo nguẩy uống cà phê, miệng ứa ra nụ cười ta đây tha thứ cho tha nhân đấy.
Cũng vào quãng hơi gần gần, mình ghét cay ghét đắng chị thủ thư. Ghét muốn bứng muốn nhổ gương mặt nặng chình chịch như đeo cối xay bột kia, ghét cái kiểu cằn nhằn nhấm nhẳn như thể tụi học trò kia nấn ná trong thư viện lâu là để xé sách của chị (giữ) ra nấu cơm, ghét mắt luôn lườm lườm như cả thế gian này là trộm cắp. Cảm giác nếu lấy cành củi khô cọ vào người chị, lập tức củi bốc cháy, chẳng cần bùi nhùi. Mình sẽ nuôi cái sự ghét ấy cho tới hết đời, nếu không kịp trông thấy đôi bàn tay chị (và tự hỏi tại sao trước giờ mình không nhìn thấy đôi tay đó, cái gì che mắt mình đi ?). Sách tướng pháp có trang nào viết về tâm tính của một người có đôi tay rướm máu vì bị nước ăn lâu ngày, đôi tay bợt bạt và những móng tay còi cọc thối đen ? Mình không đọc loại sách đó, chỉ chắc chắn rằng chị sống vất vả. Thì ra mình đã bỏ phí hai năm trời lui tới mà không biết chị nửa khuya phải dậy ngồi bào bắp chuối đem bỏ mối, kiếm thêm chút tiền phụ thêm khoản lương còm cõi, để nuôi hai đứa em vào đại học. Bốn mươi tuổi vẫn thui thủi đi về, vai không gánh mà oằn, trưa vắng chạnh lòng khi trẻ con qua ngõ để rớt lại những tiếng cười trong trẻo.
Thời của ba má mình, cái sự ghét thương nhau đơn giản là địch - ta, là lễ giáo và những thứ xoay quanh nó. Thời mình ghét dễ, thương khó. Lên mạng thấy những cuộc tranh cãi triền miên, mạt sát triền miên mà ớn. Nào là tôn giáo, sắc tộc đã đành, ghét nhau còn vì người Nam kẻ Bắc, người quê kẻ thị thành. Ghét vì anh yêu máy ảnh hiệu Ca, còn tôi chỉ say đắm Ni. Anh mù quáng mê điện thoại Ai, còn tôi thấy loại đó là thứ khoe mẽ đồng bóng. Vậy là ném nhau bằng mọi ngôn từ bén nhọn nhất. Đến nỗi mình nghĩ ngữ pháp tiếng Việt cần phải đảo ngược, ai của cái gì. Không phải cái gì của ai.
Làm sao đi tới lòng nhau khi mắt bị che tai bị bịt và mũi nghẽn đặc bởi những định kiến vu vơ kiểu vậy. Gò má đó chứng tỏ là chị đó không tốt đâu. Cái kiểu ăn mặc buông thả đó thì cô kia cũng không tử tế đâu. Nói chuyện bỗ bã vậy chắc không phải người có học đâu. Vì một vài chi tiết không thuận mắt, mình gạt họ đi không đắn đo. Người sống lủ khủ ngoài kia, phủi sạch người này mình bắt đầu cuộc tìm kiếm khác, sợ gì.
Một bữa mình thử không phủi nữa, mình trù trừ đứng lại cười với chị thủ thư bảo cái áo hôm nay đẹp, chiều có hẹn với anh nào sao ? Và chị cười đáp trả mình sau bảy lần mình cho cười đi mà không hề nhận lại gì, bảo bữa nay sách mới về kho nhiều lắm.
Ấy mà chị ấy ơi, em chỉ khao khát đọc người khác bằng đôi mắt của chính mình nằm đâu đó, không hẳn là trên mặt.

-----------------------------------------------------------
HG: Mình cũng sống với đầy định kiến. Thật... khỉ!

thi nghiem, 5 con khi, cai thang, chuoi,







khong biet

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Phùng Quán


HG: Ngày 22/12/2014 qua rồi! 70 năm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam. Trang blog của mình chưa có gì, thấy thật là áy náy. Tìm nội dung thì nhiều lắm, và mình tìm thấy bài thơ đã đọc từ lâu của nhà văn Phùng Quán- người Thiếu sinh quân liên khu IV, cựu chiến sĩ trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân... Bài thơ "Hôn" (Hồi trước mình đọc  lại tưởng thơ dịch.)
Xin đăng hai bài thơ và một đoản văn của ông. Chào mừng ngày Quân đội! Kính tặng bao thế hệ những người chiến sĩ quả cảm.

Hôn

 
Phùng Quán- chiến sĩ Vệ Quốc đoàn
     Trời đã sinh ra em
     Để mà xinh mà đẹp 
     Trời đã sinh ra anh
     Để yêu em tha thiết

     Khi người ta yêu nhau 
     Hôn nhau trong say đắm 
     Còn anh, anh yêu em
     Anh phải ra mặt trận.

     Yêu nhau ai không muốn
     Gần nhau và hôn nhau
     Nhưng anh, anh không muốn 
     Hôn em trong tủi sầu

Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn

Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ.


1956.


-----------------------------------------



Lời mẹ dặn


Tôi mồ côi cha năm hai tuổi 
Mẹ tôi thương con không lấy chồng 
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải 
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn. 




Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ 
Ngày ấy tôi mới lên năm 
Có lần tôi nói dối mẹ 
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.

Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn 

Ôm tôi hôn lên mái tóc 
- Con ơi 
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời 
Phải làm một người chân thật.

- Mẹ ơi, chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt 
Con ơi một người chân thật 
Thấy vui muốn cười cứ cười 
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu 
Ghét ai cứ bảo là ghét 
Dù ai ngon ngọt nuông chiều 
Cũng không nói yêu thành ghét. 
Dù ai cầm dao dọa giết 
Cũng không nói ghét thành yêu.



Từ đấy người lớn hỏi tôi: 
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất? 
Nhớ lời mẹ tôi trả lời: 
- Bé yêu những người chân thật. 

Người lớn nhìn tôi không tin 
Cho tôi là con vẹt nhỏ 
Nhưng không! những lời dặn đó 
In vào trí óc của tôi 
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi 
Đứa bé mồ côi thành nhà văn 
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm 
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ. 
Người làm xiếc đi dây rất khó 
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn 
Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu 
Ghét ai cứ bảo là ghét 
Dù ai ngon ngọt nuông chiều 
Cũng không nói yêu thành ghét 
Dù ai cầm dao dọa giết 
Cũng không nói ghét thành yêu 
Tôi muốn làm nhà văn chân thật 
chân thật trọn đời 
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi 
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã 
Bút giấy tôi ai cướp giật đi 
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá. (*)

1957.
------------------------------------------


                Ba phút sự thật


Nhà văn Phùng Quán (1932-1995)
    Trong cuộc đời làm văn của tôi, tôi mắc phải một khuyết điểm trầm trọng: Diễn đạt dài dòng. 
     Người đầu tiên dạy cho tôi sự hàm súc, cô đọng trong nghệ thuật ngôn từ là một thanh niên Cuba. Anh tên là Angtôniô Ếchxêvania, biệt danh là Măngđana (Quả táo). Anh mới 22 tuổi, sinh viên khoa ngữ văn. Ngày đó đất nước Cuba còn sống dưới chế độ độc tài Batitsta. Thói dối trá, đạo đức giả, lừa bịp được bọn Batitsta chọn làm quốc sách cai trị dân. Quốc sách này được lũ khuyển ưng văn hóa, văn nghệ tô vẽ, dệt gấm thêu hoa, nên ngày càng trở nên độc hại, ru ngủ không ít người Cuba vốn hào hiệp, cả tin, nhiệt tâm và lương thiện. 
     Măngdana tham gia tổ chức bí mật nhằm lật đổ chế độ Batítsta. Anh cùng với mấy người bạn thân tín trong tổ chức hoạch định một kế hoạch xé toạc bức màn quốc sách lừa mỵ của bọn độc tài và nói rõ sự thật với nhân dân. Kế hoạch khá mạo hiểm: Đánh chiếm Đài phát thanh quốc gia vào giờ phát thanh ca nhạc, giờ mà không một người dân Cuba nào không ngồi bên máy thu thanh. Sau khi đã dự liệu tính toán kỹ lưỡng đến cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong kế hoạch đánh chiếm, Măngdana cùng với bạn anh biết chắc rằng chỉ chiếm nổi đài phát thanh trong vòng 3 phút, có nghĩa là 180 giây đồng hồ, sau đó bọn bảo vệ đài sẽ tiêu diệt anh… Vậy là bài nói chuyện của anh sẽ phải chấm hết ở giây đồng hồ thứ 181. Anh đặt tên cho kế hoạch mạo hiểm này là "Ba phút sự thật". 
     Điều làm Măngdana lo lắng nhất không phải là việc đánh chiếm Đài phát thanh, cũng không phải là cái chết. Cái khó là anh phải nói được sự thật với nhân dân chỉ trong vòng ba phút! 
     Kết quả, Măngdana cùng các bạn anh, với lòng dũng cảm siêu phàm và trí thông minh tuyệt vời của tuổi trẻ, đã thực hiện chiến công thần kỳ này một cách toàn vẹn đúng như kế hoạch đã định: Bài nói của anh chấm hết vào đúng vào lúc những loạt đạn tiểu liên bắn thẳng vào ngực anh, vào tim anh ở giây thứ 181. 
     Sau ngày Cách mạng Cuba thành công, Ăngtôniô Ếchxêvania được nhà nước xã hội chủ nghĩa Cuba truy tặng danh hiệu Anh hùng dân tộc. Chiến công của anh được nhà thơ Nga Xô viết Éptusenkô viết thành bản tráng ca nổi tiếng "Ba phút sự thật". Câu chuyện về Măngdana dạy tôi một bài học lớn về nghệ thuật ngôn từ. Cả những đề tài lớn lao nhất như sự thật, như chân lý, đều có thể diễn đạt nó trong vòng 180 giây đồng hồ với điều kiện tác giả phải sẵn sàng đem mạng sống trả giá cho những giây đồng hồ quý báu đó. 

Sài Gòn 13-2-1993.


----------------------------------------------------------

-(*) Đoạn thơ này được bạn văn cho khắc trên bia mộ ông:

Lăng mộ nhà văn Phùng Quán và vợ- Bà Vũ Bội Trâm

- Bài đã đăng của cùng tác giả: Người dựng lễ đài Tuyên ngôn độc lập
- Đọc thêm về nhà văn Phùng Quán ở đây

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Cây tình thương

HG: Một thế giới văn minh và đầy tình người...

CHÚC MỘT MÙA GIÁNG SINH AN LÀNH VÀ ẤM ÁP!


Nguyễn Thị Huế Xưa

     Tôi là một người đàn bà độc thân, tảo tần nuôi dưỡng một đàn con nhỏ bốn đứa với đồng lương tối thiểu từng giờ. Mặc dù vấn đề tài chánh rất hạn hẹp nhưng những đứa con của tôi chưa bao giờ cảm nhận sự nghèo khổ vì chúng tôi có được một mái nhà để nương thân, thức ăn và áo quần thì không dư thừa nhưng không đến nỗi thiếu thốn. Thuở nhỏ, tất cả các con tôi không bao giờ nghĩ là gia đình chúng thuộc thành phần nghèo mà chỉ cho là mẹ chúng nó sống quá tằn tiện, và chính điều này đã làm tôi rất mãn nguyện.
     Vào dịp lễ Giáng Sinh, mặc dù không có nhiều tiền để xum xoe mua sắm quà, nhưng cả gia đình đã bàn tính là sẽ mừng ngày lễ bằng cách ăn uống, vui chơi trong phạm vi của mình với những người bà con, bạn bè và những người quen trong nhà thờ. Chúng tôi cũng có dự tính hoặc là sẽ lái xe xuống phố xem những dãy đèn lộng lẫy, nhìn thiên hạ ăn uống ở những nhà hàng sang trọng, và chúng tôi cũng muốn tự trang trí ngôi nhà của chính mình.
     Một trong những điều mà các con tôi mong ngóng, háo hức nhất là ngày được đi mua quà ở trong khu siêu thị chính. Chúng nó bàn bạc cả mấy tuần lễ trước, hỏi nhau xem chính chúng nó và ông bà có ước muốn những món quà gì trong dịp Giáng Sinh. Chỉ có tôi là cảm thấy bất an vì tôi dành dụm được có $120 để chia đều cho cả năm mẹ con đi mua quà.
     Thế là ngày “trọng đại” đã đến, chúng tôi rời nhà thật sớm. Tôi đưa cho mỗi đứa bé $20 và nhắc nhở là nên chọn mỗi món quà chừng bốn đồng thôi. Thế rồi mỗi người tản mát mỗi nơi, chúng tôi chỉ có hai tiếng đồng hồ để mua sắm và sau đó hẹn gặp lại nhau nơi chưng bày cái “workshop” của ông già Noel.
     Lên xe trên đường về nhà, với tinh thần phấn khởi của mùa lễ, mọi người nói cười vui vẻ, rộn ràng chọc ghẹo nhau để mong tìm ra cái “bí mật” của những món quà vừa mua. Trong không khí náo nhiệt đó, đứa con gái gần tám tuổi của tôi, Ginger, ngồi trầm tư một cách khác thường, tôi để ý là dù sau một cuộc mua sắm vừa qua, trong tay con bé vỏn vẹn chỉ có một cái bao nhỏ, thẳng thớm. Tuy nhiên, tôi đã nhìn thấy được những phong kẹo qua lớp bao nylon mỏng. “năm chục xu cho mỗi phong kẹo”? Tôi cảm thấy giận dữ trong lòng. “Con đã xài gì với hai mươi đồng mà mẹ cho con”? Tôi muốn la mắng con bé nhưng tôi dằn lòng. Khi về đến nhà tôi gọi Ginger vào phòng đóng cửa lại và sẵn sàng bộc lộ sự tức giận của tôi khi hỏi về số tiền mà tôi đã trao cho con bé. Ginger bảo với tôi:
Mẹ ơi, con đang nhìn quanh quẩn suy nghĩ xem phải mua những món gì thì bỗng dưng con ngừng lại và đọc những tấm thiệp treo trên “Cây Tình Thương”của cơ quan Salvation Army. Một trong những tấm thiệp là ước muốn của một con bé bốn tuổi, quà giáng sinh mà nó ao ước rất đơn giản, có được một con búp bê mặc áo quần đẹp và một cái lược chải tóc. Con bèn chọn tấm thiệp đó, dùng số tiền con có để mua một con búp bê và cái lược rồi đem đến giao cho trạm Salvation Army để tặng nó."
     “Số tiền còn lại chỉ vừa đủ để mua những thẻ kẹo cho gia đình mình". Rồi Ginger tiếp tục nói: "Mẹ ơi, chúng ta đầy đủ quá trong khi con bé không có gì hết”.
      Ngày hôm đó là ngày tôi cảm thấy mình giàu có nhất trên đời.




Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Ông già Noel thân mến!

                                                                                                                             Goscinny Sempé.


      NHƯ MỖI NĂM từ khi cháu biết viết, và cũng được một đống năm kinh lắm rồi, cháu bảo bố và mẹ rằng cháu sẽ gửi cho ông một bức thư để đòi quà Noel. Rồi cháu bị lúng túng khi bố bế cháu ngồi lên đầu gối và bố giải thích cho cháu rằng năm nay ông không giàu lắm, nhất là sau cái vụ mà ông không ngờ tới: số tiền ông đã phải trả để chữa xe trượt tuyết, khi cái lão đần kia lao từ bên phải tới với cái xe trượt tuyết của lão, nhưng mặc dù có các nhân chứng đấy, những thứ hãng bảo hiểm vẫn nói là không phải, và ông đã ràng buộc trách nhiệm rồi. Chuyện tương tự cũng xảy ra với bố cháu cùng cái ô tô vào tuần trước, và bố đã không hài lòng tí nào.

     Thế rồi, bố bảo rằng cháu phải cao thượng và tử tế, và thay vì đòi quà cho cháu, cháu phải đòi ông quà cho tất cả những nguời cháu rất yêu quý và cho các bạn cháu. Còn cháu, cháu nói thôi kệ, đồng ý, thế là mẹ ôm hôn cháu, mẹ bảo rằng cháu là cậu  chàng lớn tướng của mẹ, và rằng mẹ chắc chắn là bất chấp cái vụ xe tuần lộc, có thể ông vẫn còn đủ tiền để không quên cháu hoàn toàn. Mẹ cũng hơi hết sảy một tí, mẹ cháu ấy.
     Cho nên, cháu không đòi hỏi ông cho cháu gì cả.
     Đối với bố cháu và mẹ cháu, sẽ là tốt nếu ông cho họ một cái ô tô nhỏ mà cháu có thể ngồi vào trong, và nó cứ tự đi mà mình không cần phải đạp, và nó có đèn pha sáng trưng, giống như cái ô tô của bố trước khi bị tai nạn. Cái ô tô ấy cháu nhìn thấy trong một cửa hàng ở xa hơn trường một tí. Nếu ông cho bố và mẹ cháu cái ô tô ấy thì sẽ rất tốt, bởi vì cháu sẽ lúc nào cũng chơi ngoài vườn, xin hứa như vậy, và cháu sẽ không làm mẹ, người không thích cháu lúc nào cũng chạy ở trong nhà và làm các thứ ngớ ngẩn trong bếp, làm mẹ phải phát điên lên nữa. Thế rồi bố, bố có thể đọc báo một cách yên tĩnh, bởi vì khi cháu chơi bóng trong phòng khách, bố rất tức và bố nói bố đã làm gì để xứng đáng được như thế này, và rằng cả ngày bố đã ở văn phòng rồi, bố muốn đuợc yên tĩnh một tí khi về nhà.  Nếu ông muốn cho bố cháu và mẹ cháu cái ô tô nhỏ  thì ông làm ơn hãy mua cái màu đỏ ấy. Có cả một  cái màu xanh lơ, nhưng cháu tin rắng bọn họ thích màu đỏ hơn.
     Đối với cô giáo, người mà khi bọn cháu không giở trò quá thì hiền và xinh thế, cháu thích có đáp số của tất cả các bài số học trong cả năm. Cháu biết rằng đối với cô giáo, khi cho chúng cháu điểm kém cô cũng khổ sở lắm. “Em biết đấy Nicolas, cô luôn bảo cháu, cho điểm không cô chẳng thích đâu. Cô biết rằng em có thể làm tốt hơn.” Thế nên nếu cháu có đáp số tất cả các bài số học thì thật là hết sảy, bởi vì cô giáo sẽ cho cháu hàng đống điểm tốt, và cô sẽ hài lòng hết sức. Còn cháu, nếu có một thứ cháu rất thích, thì đó là làm vừa lòng cô giáo; với cả Agnan, cái thằng là cục cưng ấy, nó không còn lúc nào cũng nhất lớp nữa, và thế sẽ tốt cho nó, bởi vì nó làm bọn cháu khó chịu, thật chứ gì nữa, xét cho cùng.
    Geoffroy, một thằng bạn, nó có một ông bố rất giàu lúc nào cũng mua tất cả những thứ nó muốn, và ông ta vừa mua cho nó một bộ trang phục lính ngự lâm kinh khủng, với một thanh kiếm, chát, chát, một cái mũ có cắm lông vũ, và tất tật. Nhưng mỗi mình nó là có bộ trang phục lính ngự lâm, thế nên khi nó chơi với bọn cháu, thằng Geoffroy ấy, thì không vui mấy, nhất là cái quả kiếm; bọn cháu dùng thước kẻ, nhưng cái đó thì khác lắm. Cho nên, nếu cháu cũng có một bộ trang phục lính ngự lâm, thì thằng Geof froy sẽ thích, bởi vì nó có thể chơi thật với cháu, chát, chát, và bọn khác, với thước kẻ của bọn nó, bọn cháu sẽ chấp tất và hội thắng lúc nào cũng là bọn cháu.
     Với Alceste, một thằng bạn khác, thì dễ; Alceste rất thích ăn, cho nên nếu cháu có hàng đống tiền, ngày nào tan học cháu cũng sẽ mời nó vào hàng bánh ngọt để ăn bánh mì nhỏ quết sô cô la mà bọn cháu rất thích. Alceste cũng thích thịt ướp nữa, nhưng nó sẽ chỉ có bánh mì nhỏ quết sô cô la thôi, bởi vì nói cho cùng chính cháu là người trả tiền, và nếu thế mà nó không thích thì nó cứ tự đi mà mua thịt ướp cho nó. Đừng có mà đùa!
     Joachim nó rất thích chơi bi. Và phải nói rằng nó chơi rất khá; khi nó bắn thì, bụp! Nó gần như không trượt bao giờ. Cho nên bọn cháu dĩ nhiên rồi, chẳng muốn chơi với nó nữa, bởi vì nếu bọn cháu chơi thật, bọn cháu mất sạch bi. Và thằng Joachim thấy chán, vào giờ ra chơi. “Chơi nào, bọn mày, chơi nào!…”, thằng Joachim bảo bọn cháu, thật là buồn. Cho nên, nếu cháu có hàng đống bi, cháu sẽ đồng ý chơi với thằng Joachim, bởi vì ngay cả khi lúc nào nó cũng thắng, cái thằng ăn gian bẩn thỉu ấy, cháu vẫn luôn có bi.
     Eudes, cáí thằng rất khỏe và thích đấm vào mũi bọn bạn, bảo cháu rằng nó sẽ đòi ông một đôi găng đấm bốc, như thế vào giờ ra chơi bọn cháu sẽ tha hồ thích. Cơ mà đối với thằng Eudes, quà hay nhất cho nó chính là đừng cho nó đôi găng đấm bốc. Thật đấy ạ, bởi vì cháu biết chuyện sẽ diễn ra thế nào: Eudes sẽ đến với đôi găng, nó sẽ đấm các phát vào mũi bọn cháu, thế là bọn cháu bị chảy máu, bọn cháu sẽ khóc và thầy giám thị sẽ tới, thấy ấy sẽ phạt Eudes, còn bọn cháu, khi một thằng bạn bị phạt ở lại lớp, bọn cháu sẽ buồn bực. Cho nên nếu ông bắt buộc phải cho ai găng, thì hãy cho bọn cháu, như thế thằng Eudes sẽ không phải khổ.
     Clotaire ấy à, nó là đứa đứng thứ bét lớp. Khi cô giáo hỏi bài nó, lúc nào nó cũng bị nghỉ ra chơi, và khi người ta phát sổ liên lạc thì nhà nó luôn sinh chuyện, và nó bị nghỉ xem phim, ăn tráng miệng và xem ti vi. Nó luôn bị nghỉ cái gì đó, thằng Clotaire ấy, và thầy hiệu truởng, trong giờ học, đã đến bảo nó trước mặt tất cả mọi người rằng rồí nó sẽ vào tù ra tội và rằng điều đó sẽ khiến bố mẹ nó buồn khổ kinh lên được mà bọn họ thì đã phải nghỉ đủ thứ, bọn họ cũng thế đấy, để  cho nó được học hành tử tế. Nhưng cháu, cháu biết tại sao thằng Clotaire lại đứng thứ bét và tại sao lúc nào nó cũng ngủ trong giờ. Đấy không phải vì nó dốt; nó cũng không dốt hơn thằng Rufus đâu, ví dụ thế, mà bởi là vì nó mệt. Thằng Clotaire chuyên tập trên cái xe đạp màu vàng hết sảy của nó, để thi giải Tour de France sau này, khi nó 1ớn. Cho nên, dĩ nhiên là do tập luyện, nó không thể học bài cũng như làm bài tập, và vì nó không làm, cô giáo đã cho nó chép phạt và chia động từ, và vì càng ngày nó càng phải làm nhiều thứ, nên nó bắt buộc phải học thêm cả chủ nhật. Vì thế để thằng Clotaire không còn bét lớp nữa, để nó không còn bị nghỉ xem phim, ăn tráng miệng và xem ti vi nữa, thì tốt nhất là lấy của nó cái xe đạp. Dù sao đi nữa nếu cứ tiếp tục, nó sẽ phải vào tù ra tội như thầy hiệu trưởng đã nói, và người ta chắc chắn sẽ chẳng thả nó ra để mà đua giải Tour de France. Cái xe đạp, nếu ông muốn, cháu đồng ý giữ cho đến khi thằng Clotaire lớn và nó không phải đi học nữa.
     Còn với thầy Nước Lèo, đấy là giám thị của bọn cháu, nhưng đó không phải là tên thật của thầy ấy, thì cần phải hết sức tử tế. Đúng thế, thầy ấy lúc nào cũng chạy trong sân vào giờ ra chơi, để ngăn bọn cháu chơi săn bóng – kể từ cái vụ cửa sổ phòng thầy hiệu trưởng – để tóm bọn cháu khi bọn cháu giở trò nghịch, để bắt bọn cháu đứng phạt, để phạt bọn cháu phải ở lại lớp, để bắt cháu chép phạt, để đi kéo chuông hết giờ ra chơi. Thầy mệt lắm, thầy Nước Lèo ấy. Thế nên ông cần phải cho thầy ấy nghỉ ngay lập tức, để thầy ấy có thể về quê thầy ấy, ở Corrèze, và cứ ở mãi đó. Và, để cho công bằng, ông cũng phải cho nghỉ phép cả thầy Mouchabière, người thay thế thầy Nước Lèo khi thầy Nước Lèo không ở đó.
     Thế rồi, đối với Marie–Edwige, là một cô bé hàng xóm, và rất là hết sảy, cho dù là con gái đi nữa, với khuôn mặt hồng hào, đôi mắt xanh và mái tóc vàng của cô nàng, cháu muốn biết nhào lộn thật đỉnh. Cô nàng thích xem nhào lộn lắm, Marie-Edwige ấy, cho nên, nếu ông có thể làm cho cháu nhào lộn đỉnh nhất cả lũ, Marie-Edwige sẽ bảo: “Nicolas là đỉnh của các loại đỉnh.” Và nàng ấy sẽ rất hài lòng.
     Vậy thôi ạ, cháu đã đòi ông các thứ cho tất cả những người cháu quý mến. Có thể có người cháu quên mất, bởi vì có hàng đống người mà cháu quý, cho nên, ông hãy cho cả họ nữa hàng đống với hàng đống với hàng đống quà.
     Còn cháu, như cháu đã bảo ông, cháu không muốn gì cả. 
     Có thể là ông vẫn còn tiền, và thì là, cháu không biết nữa, ông hẳn cũng vẫn muốn tặng cháu một món, như cho cháu cái máy bay ở trong tủ kính của vẫn cái cửa hàng mà ông mua ô tô cho bố mẹ. Nhưng ông phải chú ý khi chui qua ống khói bởi vì cái máy bay cũng màu đỏ như cái ô tô và nó rất là dễ bắt bẩn đấy ạ.
     Nói tóm lại, cháu hứa với ông là sẽ ngoan hết sức có thể, và cháu chúc ông : GIÁNG SINH VUI VẺ!

                                                                                                         Người dich: Trác Phong

 (Trích Nhóc NicolasNhững chuyện chưa kể (Tập 3)Goscinny Sempé.)

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Ba con cáo

                                 Truyện ngắn                                     
Bình Nguyên Lộc

   Mặc dầu là tay “bán trời không mời thiên lôi”, Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài. Thánh giá trắng đứng mơ hồ trong ánh sáng lờ mờ của nghĩa địa, sắp thành hàng ngũ đông đúc, nhánh ngang của thánh giá trông mường tượng như những cánh tay người giăng ra để đón bắt ai. Xa xa, một trụ vôi có dáng một người đàn bà đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám mồ trước mặt bà ta. Gió đêm, cùng với dế, trùng, họp nhau mà than vãn bên hàng nghìn mồ hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu vẳng nghe như có tiếng người rên rỉ đâu đây.

   Từ một ngôi mả cũ đằng xa, một ánh lửa lóe lên, nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi đi bơ vơ qua các hàng thánh giá. Lửa ma trơi hay là đèn của một người đi soi ếch nào đó? Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước. Lạnh quá, lạnh ngoài da, mà lạnh cả đến trong lòng. Người sống, một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết, mới nhận được rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán.
   Tại phố Phát Diệm, khúc phía trên này, họ Cầu Kho có một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không cho chôn trong đó nữa. Dân số nghĩa địa cứ mỗi ngày một tăng lên, mà không có một ai chết lần thứ nhì cả để cho số sanh và số tử bù trừ nhau hầu đất đai trống bớt chỗ. Ngoài thành phố, người ta đẻ con, nhưng người ta lại chôn ông, nhà cửa thành thử không chật thêm được. Ở đây mồ mả sanh ra rồi già cỗi dưới rêu xanh của sương gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến muôn thu. Vì vậy nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn. Nhà thờ không cho chôn xác thêm vào đó, rồi cũng chểnh mảng việc trông nom đất thánh nên người sống đang thiếu đất, bèn ùa đến mà lấn người chết...
   Nghĩa địa không có vách thành. Ban đầu vài người mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất thánh. Thấy không ai nói gì, một số người khác lách qua khỏi mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà xây cất. Họ cất vây tứ phía ngôi đất thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại, người chết không còn lối nào để thoát ra được nữa cả. Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương. Người sống cũng biết đau lòng khi phải dẫm lên những gò mả còn mới rành rành (nhiều mô. bia, thánh giá, đề năm chôn là 1951) nhưng họ, ác thay, lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất nhà trên những nấm đất ấy, xin người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi.
   Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì!
   Cuộc xâm lăng lặng lẽ để tranh sống với người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ. Vùng đất ấy ngày xưa tuy cũng thấp mà vẫn khô ráo, nhờ con rạch Bần tháo nước ra sông Ông Lãnh. Nhưng từ khi đô thành cho đắp đại lộ Trần Hưng Đạo, cách đây mấy mươi năm, thì ngọn rạch Bần bị lấp, và nước mưa trên nầy bị bỏ tù lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy đất trũng mà!Đất thánh không phải ở giữa rún đất nên không đọng nước. Nhưng vòng vây tai hại kia lại biến thành con đê ngăn nước đất thánh đô xuống chỗ trũng hơn. Thành thử phần nhiều ngôi mộ đã biến thành cù lao, có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần đảo, không còn làm sao ra đó được nữa. Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng khôn tả. Đáy ao biến thành bùn non, đi thì lún đến ống quyển. Lau, sậy, đế tha hồ mà mọc như ở bưng miền xa.
   Giữa đất thánh còn sót lại một ngôi mộ cổ kiến trúc theo bên lương mà có lẽ nhà thờ không nỡ phá đi lúc lập ra đất thánh cho giáo dân nầy. Ngôi mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa địa, xây bằng vôi và ô đước, xanh đặc những rêu phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối như một lâu đài, đầy rẫy ngăn nắp với nào là đường vào lối ra quanh co và hóc hiểm.
   Hôm ấy những người của vòng vây đều ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi mộ cổ ấy. Nhà dựng đâu từ sớm mai đến trưa là xong cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau làm thế nào mà chủ nếp nhà ấy lội sình để ra ngoài đó được. Đi tay không đã không được rồi, mà làm sao hắn ta lại mang cả gỗ, tre và lá ra đó để cất nhà? Hỏi nhau không ai đáp được, mà cũng chẳng mong phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ đành thôi. Thế rồi mắt họ quen đi, nếp nhà ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ nhận cho nó ở đó mà không bàn tới bàn lui gì nữa cả.
   Sáu Sửu ngày trước có ở xóm Phát Diệm. Năm ấy có người treo cổ trong nhà mồ ở bìa đất thánh. Anh đã vào đó với nhiều kẻ hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên được dịp biết rõ nghĩa địa. Hôm tháng rồi anh bị truy nã ráo riết nên cố tìm một chỗ ẩn nấp thật kín. Nhớ lại xóm cũ với cái nghĩa địa kia, anh về qua đó và rất hài lòng mà gặp hòn đảo nầy. Không một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội sình nhứt là dầm chơn trong một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo Lỗ Bình Sơn của anh. Nếu có cuộc bố ráp đại qui mô như hồi còn Tây thì bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú bậy vài tiếng như hú đò bên kia sông, rồi đò không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng chưa chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá hiền, một tên ăn mày nào đó chớ gì!
   Từ vòng vây ở ngoài, leo lét vài ngọn đèn dầu của những kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa ngoài kia, ánh sáng đô thành làm nổi bật lên, đen thui, những ngôi nhà lầu, những ngọn cây cao. Các thứ nầy giống hệt những hình bằng giấy đen, người ta cắt rồi dán lên nền trời. Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu ánh sáng...

   Anh Sáu quên, một thứ khác, cũng giống như lau sậy, mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế đêm nay trời có trăng, anh ngồi ngó một ra đám rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết hồn trước sự hiện ra của một chú chồn to bằng con chó ta.  Chồn khua lau sậy sột soạt, rồi chui ra khỏi mộ, ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây chưa có. Suốt ngày hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không biết ngoài này loài người làm gì mà lục đục mãi. Đôi mắt nó lóng lánh dưới ánh trăng, ngạc nhiên giây lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người rồi nên không có vẻ gì sợ sệt cả.
   Nhưng anh Sáu lại sợ. Anh có đọc truyện Phong Thần nói chuyện mả Huỳnh Đế có một bầy hồ ly mà một con đã nổi danh trong lịch sử, là cái con đã biến thành nàng Tô Đắc Kỷ; đến nay thấy chồn trong mộ chui ra, anh liên tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn người lên. Nhưng anh trấn tĩnh lại được. Trong dân chúng người ta tin chắc như đinh đóng cột rằng tóc người chết hóa thành con lươn, rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn mà anh thấy, có lẽ chỉ là thối thân của tóc người nằm dưới nhà mồ, chớ không phải yêu quái gì đâu!
   Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
- A ha, đồng đạo đây mà! Anh Sáu cười mà nói thầm như vậy rồi cảm tình ngày với con thú nầy.
   Cái đạo mà anh nói đó là đạo… chích; trước kia, trước khi lường gạt và cướp giựt, anh cũng đã đi ăn cắp gà như chú chồn nầy vậy. Ngày nay anh thôi ăn cắp, nhưng lại biến thành con cáo già chuyên môn gạt gẫm thiên hạ.
- Mầy cáo thì tao đây cũng cáo, vậy thì là bồ rồi.
   Từ đó, hai con cáo chung đụng với nhau mà không xích mích bao giờ cả.

*
   Nghe động dưới sàn, anh Sáu mỉm cười lẩm bẩm:
- Đồng nghiệp xuất quân đó đa!
   Anh Sáu nhờ cậy con chồn nầy lắm. Có nó ở dưới ấy thì không còn lo rắn rít nữa. Anh mong có dịp trả ơn nó, nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm lao động vây quanh nghĩa địa, người ta nuôi gà vịt cả bầy, nó ăn đến già cũng chưa hết. Bỗng anh Sáu nghe có tiếng chó sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó bẹc-giê. Rồi lại nghe nước khua lũm chũm, với tiếng chó càng lúc càng đến gần anh. Anh Sáu bước ra dòm thì thấy bạn của anh đang chạy bán sống bán chết trước một con chó to thấy mà bắt ớn. Anh Sáu thò tay vào trong rút cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ như chớp, anh chìa mũi chĩa đón đầu chó cho chồn đủ ngày giờ chui vào mả.
   Chó bẹc-giê chạy quá đà, bị mũi chĩa đâm vào mõm đau điếng, rống lên vài tiếng rồi trở bước, vừa đi vừa day lại, sủa om như chửi thề. Anh Sáu cười ha hả rồi cúi xuống sàn mà nói:
- Đêm nay tổ trác rồi đó phải không em! Anh đây cũng bị rượt thường lắm, nhưng đều thoát khỏi cả. Bây giờ thì đố ai mà dám theo anh vào chốn nầy. Chỗ ở tụi mình kín số dách.
   Sáng hôm ấy, anh Sáu đi uống cà-phê, về tới nhà thì ngạc nhiên hết sức. Trên một ngôi mộ cận mộ anh, một chòi lá đã dựng lên rồi. Ngộ quá, nhà cửa sao mà mọc mau lẹ như nấm mối. Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một tờ nhựt báo là một túp lều cũng vừa dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì chậm sao được! Anh Sáu ngạc nhiên mà thấy có một người thứ nhì lại biết con đường bí mật đưa vào đó! Anh lại tức vì túp lều ấy chặn ngay đầu đường bí mật của anh.
   Số là anh Sáu biết lợi dụng mấy ngôi mộ chung quanh nên mới vào đây được. Anh phải đi quanh co nhiều nơi, nhảy từ ngôi mộ nầy qua ngôi mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông, nhưng ra khỏi nghĩa địa lại ra hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng rất lớn và rất cong quẹo.
   Túp lều tranh ấy cất ngay trên ngôi mộ anh dùng làm đầu cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm sao mà về nhà được, nếu hắn không cho anh nhảy ngang qua nhà hắn? Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho.
   Anh Sáu vỗ đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống phiến mộ bia đặt nằm theo lối Châu Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau:
Ci-git:
Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở
décédé en sa 78è année
Priez pour lui (1)
   Phiến đá lớn bằng bộ ván hai, và thằng cha chủ nhà nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván luôn, nên không thấy nó lót gì trên ấy cả mà lại để lên đó nào là va-ly, dép… à… mà sao lại dép đàn bà?
   Túp lều che có phân nửa tấm bia thôi; cửa lều là một bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước tới vén màn lên thì ô nầy lạ, chủ nhơn bà (chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu phụ tóc quăn. Chủ nhơn bà bình tĩnh chào anh Sáu bằng một mỉm cười yên lặng.
   Có lẽ chồng chị ta đi làm rồi chăng? Nhưng vẫn lạ là chị không có vẻ lao động chút xíu nào hết. Móng tay chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội. Y phục của chị cũng không phải y phục của những kẻ đầu tắt mặt tối: lai quần gắn ren, áo cổ bà lai thêu rằn rịt xanh đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột bằng ruy-băng màu.
   Chị ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh:
- Có tiền mãi lộ không? Nếu không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng đồn ở đây rồi, ai bước qua phải đóng thuế.
   Anh Sáu thọc tay vào túi quần tây cũ của anh đứng thẳng lên coi oai vệ như một tướng cướp trong xi-nê-ma, cười gằn rồi ngạo nghễ đáp:
- Hỡi cô nữ tướng mã thượng giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì đòi tiền mã lộ ai được. Nữ tướng có giỏi thì bước ra ngoài đánh với ta vài mươi hiệp cho rõ tài cao thấp.
   Nữ tướng cười xòa vì nghe giọng điệu thì biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt nạt hắn không được nhưng bắt bồ với hắn có thể có lợi. Anh Sáu xem qua thì biết nữ tướng thuộc vào hạng người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là một kẻ trốn chui như anh, như con cáo dưới giường anh. Cả ba đều là chồn, nhưng con chồn cái này đã tu luyện nhiều năm nên mang được hình người. Đây là một thứ hồ ly không hớp hồn nho sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao động thôi.
   Đầu anh Sáu đụng nóc chòi, anh khó chịu quá nên ngồi xuống:
- Ở đây không sợ mang tội à? Anh hỏi đùa.
- Chớ còn anh?
- Tôi thì khác. Ngôi mả của tôi cũ lắm rồi. Đó là một cái nhà của một người chết đã đi đầu thai kiếp khác rồi.
   Con chồn cái bỗng bỏ cái cười, buồn nét mặt lại rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước nghĩa địa. Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu.
- Anh thấy không? Chị ta nói. Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm tội như vầy.
  Anh Sáu thở dài rồi không thèm chào hỏi gì cả vỗ đùi nhảy bay qua nhà anh.
  Từ đó bộ ba chịu đựng nhau để sống chung nhau.
  Họ khác nhau ý tứ, phong tục, thói quen, lối sống, nhưng cả ba con cáo đều có một nỗi băn khoăn chung là cả ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con… cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công An, còn con hồ ly cáo cái thì sợ lính kiểm tục. Trong cảnh khổ giống nhau, tuy họ không tương đắc với nhau được và vẫn phải tương thân để bảo vệ nhau, khi cần. Mà nhứt là để an ủi lẫn nhau.
   Anh Sáu không thích đờn bà lắm. Hay nói cho đúng ra, anh đã chán chê đờn bà, nhứt là chán những hạng đờn bà như con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên nầy.
   Nhưng mà những đêm mưa dầm buồn quá, nằm giữa cánh đồng ma mà được có người để trò chuyện với nó thì ấm biết bao! Những đêm mưa như vậy, con hồ ly không đi kiếm ăn được, mà cũng không đủ sức mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì hòn đảo của anh ở xa mãi ngoài giữa dòng nước, nên hồ ly ta thắp lên một ngọn nến rồi ngồi bó gối mà ca trật lất bản nhạc “Đêm đông”.
“Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng”.
   Gió đâm sầm vào tiểu giáo đường đằng trước kia, tung hoành giữa gian phòng trống mênh mông rồi vừa hú vừa chui ra khỏi các cửa sổ nghe bắt lạnh mình. Mấy cây thùy liễu hiếm hoi đã kháng cự được với lau sậy để sống sót, đứng cúi đầu khóc sướt mướt dưới trận mưa dầm, trong ánh trăng mờ. Mộ hàng hàng như bầy cừu nằm nghỉ, gặm cỏ héo hon và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất mồ côi (2)Đây là chốn mà mộng đời bị cắt đứt nửa chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên thu, mà người sống cũng khó mong trở về với xã hội loài người.
   Anh Sáu nhảy bay qua nhà hồ ly, như một tay kiếm khách phi dạ hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy mới cùng nhau tâm sự. Không phải kể chuyện cho khách nghe, hồ ly khỏi phải thi vị hóa buổi thiếu thời của mình, không cần lòe ai, con cáo già cũng khỏi anh hùng hóa bước giang hồ của hắn. Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau thấy. Bao nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa, họ phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó chịu.
   Trời mưa cuối mùa cứ dai dẳng từ ngày nầy qua ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh mì chả lụa trừ cơm. Mãi rồi nó cũng không còn tiền để mua xôi nữa. Đất Sài Gòn, những ngày cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng sợ lạnh, không hề dám ló ra ngoài. Nó có ló ra, con hồ ly mới ăn nem nướng được, còn nó mà trùm chăn thì chồn cái cũng đành trùm mền mà nhịn đói. Anh Sáu cũng chẳng thấy đi uống cà-phê sáng cho ấm bụng. Cũng chẳng thấy khói thuốc bay ra khỏi mái lều của anh như mọi ngày, và lâu lâu cũng không còn nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu xèo một cái. Cả hai, vì tự ái hão, đều giả đau để nằm nhà. Anh Sáu yên thân hơn, còn dám ngồi dậy lết ra lết vô. Còn con hồ ly thì sợ anh Sáu đi ngang qua đó biết mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ sáng đến chiều.
   Khó chịu quá, ngộp quá, mà anh Sáu không đi ngang qua lần nào để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có tức hay không chớ? 
   Hết mưa rồi nắng. Anh Sáu ra đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh lấy chơn lật chiếu ra thì thấy hồ ly nằm xụi lơ. Nàng đau ốm thật đó, đau một chứng bịnh cổ điển của loài người, là bịnh … đói. Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
   Thiên hạ cứ mỗi ngày một khôn ra, cho nên, mặc dầu là cáo già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa. Anh buồn hiu trở lại đào viên mà ba người bạn đã mặc lặng kết nghĩa với nhau hôm mấy tháng trước.
- Chị đỡ bớt hay chưa? Anh hỏi bậy cho có chuyện.
- Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt.
- Chị nghe trong mình làm sao?
- Không biết. Nhưng nếu ăn được một chén cháo thì khỏe.
   Anh Sáu hiểu ngay. Anh lại thở ra, ngồi bó gối bên cạnh một người mà anh sẽ chịu đồng cảnh vài ngày nữa đây. Sở dĩ anh còn đi đứng được là nhờ anh mạnh sức, lây lất nổi thêm vài ngày.
   Chiều xuống sớm và mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba.
- Hừ, nó coi vậy mà nó đó.
   Bỗng một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa mừng thì lại nghe như ai xát ớt trong ruột anh.
   Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ.
   Anh Sáu đứng lên nhảy bay qua nhà anh, rồi ngồi nhìn mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao tù. Một con nhái hay con gì không rõ, nhảy xuống nước lội róc rách đi về đâu không biết. Gió hú trong tiểu giáo đường, gió than vãn ở các nhà mồ. Xa xa tiếng động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng cuộc sống ở bãi tha ma nầy thầm lặng quá!
   Anh Sáu rút cây chĩa ba, lết ra tới trước mả mà ngồi. Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng nước, mắt lom lom rình.
   Bỗng có tiếng sột soạt do con chồn khua lau sậy, nay đã chết khô rồi. Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh đập thình thình trong lồng ngực anh. Lạ! Anh đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không nghe mảy may sợ hãi. Cớ sao đêm nay …
   Kìa một cục đen đen thò ra khỏi sàn ván. Anh Sáu cầm chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi chĩa đâm chúi xuống trúng ngay cổ con chồn. Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ, rồi thôi. Trong bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng vang lặp lại tiếng kêu thương của con vật vừa bị bạn phản bội nầy...
   Dân lưu manh vẫn thế. Họ cũng biết xúc cảm, nhưng chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu con chồn vài giọt nước mắt rồi thịt nó liền mà không nghe nhờm răng.
   Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no.
   Họ chỉ ân hận một vài giây thôi, vì dầu sao, người bạn xấu số ấy cũng chỉ là một con chồn. Ai dư nước mắt mà khóc thú vật cho lâu!
   Trời cứ mưa, mưa như cầm chĩnh mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên tàu, mưa cho hết ráo nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấu tủy khô.
   Ăn được bữa cháo chồn, hồ ly nghe khỏe như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị ra đi, căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ có tiền, một món tiền khá to, đâu như năm trăm, do một anh tình nhơn hứa biếu và hẹn hôm ấy trao cho vì hôm trước là ngày lương. Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy hồ ly mà hôn một cái. Nhưng hồ ly dơ thấy mà bắt nôn, nên anh thôi.
   Độ lối chín giờ sáng, anh Sáu đang nằm ca sáu câu mùi mẫn:
  "Cảnh vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy…"
thì bỗng nghe tiếng tu hít thổi hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh nghĩa địa rồi giây lát sau hồ ly nhảy như khỉ qua các nấm mồ, theo sau chị là hai người đàn ông còn trẻ.
- Trời ơi, anh Sáu kêu, mình đã dại, kể cho nó nghe duyên cớ trốn tránh của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn ơi, hồn mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi sắp bị trừng phạt đây.
   Anh Sáu bó tay không chống cự. Anh nhìn hồ ly, không oán giận mà chỉ tội nghiệp thôi. Hồ ly trốn cái nhìn của anh, ngồi day mặt vô vách lá mà đếm tiền.

*
   Đêm nay, gió sao mà hú ghê rợn hơn đêm nào cả. Hồ ly giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho bên ấy. Chị đánh diêm lên để thắp nến. Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn nằm bên đèn kể lại những bước phiêu lưu của anh. Hơi thở của anh, chị còn nghe như văng vẳng. Cái mặt xương của anh đậm nét lên dưới ánh đèn, như là còn ẩn hiện mơ hồ trên tấm mộ bia!
   Trời ơi! Kéo cuộc đời nhơ nhớp nầy biết đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp lại đê hèn, bước từ phản bội này qua phản bội khác cho đến một khi kia thì mình chỉ còn phản bội được chính mình.
   Hồ ly rùng mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi con người đã vơi cạn hết chất người. Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:
- Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa!
(Văn học miền Nam 1954)
---------------------------------------------------------------------------
Chú Thích của BNL:
(1) Nơi đây yên nghỉ: Ông An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nở, thất lộc năm 78 tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông.
(2) Ý nầy của P.S. và X.V.

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Sự đãng trí của các nhà toán học

HG: "...giữa những điều đúng chứng minh được, tôi không biết điều nào quan trọng.". Ôi số phận...!

Toán học thật lý thú, ẩn chứa trong nó biết bao bí ẩn, những con người làm nên toán học cũng không kém phần diệu kì.

1. Newton (Niu-tơn)
Có người hỏi Niu-tơn:
- Thưa ông, muốn hình thành một phát minh khoa học có cần nhiều thời gian lắm không?
- Không! Đối với tôi rất dễ dàng! Có điều là trước đó, tôi phải suy nghĩ rất lâu.
***
Một hôm trước khi ra phố, Niu-tơn treo cái biển nhỏ trước nhà có ghi dòng chữ: “Bạn nào đến thăm tôi, xin hãy đợi, 5 giờ chiều tôi sẽ về”. Lúc 4 giờ, Niu-tơn trở về. Đọc xong dòng chữ trên, ông bỏ đi và tự nhủ: “Ta phải đi một lát nữa, chủ nhà bảo đến 5 giờ ông ta mới về kia mà! Lúc đó, ta sẽ trở lại.”.

2. Euclide (Ơclít)
Có lần, sau khi giảng về phân số, thầy giáo hỏi Ơclít:
– Nếu có người đưa cho em 2 quả táo to bằng nhau, 1 quả nguyên và 1 quả đã bổ làm đôi. Người đó bảo em hãy chọn 1 phần, hoặc là quả táo nguyên, hoặc là quả táo đã bổ ra làm đôi, em chọn phần nào? 
Ơclít trả lời:
– Thưa thầy em sẽ chọn quả táo đã bổ ra làm đôi ạ!
Thầy ngạc nhiên hỏi lại:
– Thế em không biết 2 nửa quả táo cũng chỉ bằng 1 quả táo thôi hay sao?
Ơclí đáp:
– Thưa thầy, cũng bằng nhau nhưng em lấy 2 nửa quả táo vì biết đâu quả táo nguyên đã chẳng bị sâu đục khoét ở trong!


Archimède (Ác-si-met)
Huyen thoai bac hoc AcsimetÁc-si-met  là công dân của Syracuse, một thành phố trên hòn đảo mà ngày nay chúng ta gọi là Sicile. Ông sinh khoảng năm 287, mất năm 212 trước CN, sống gần 75 tuổi .Vua của thành Syracuse cho làm một chiếc vương miện bằng vàng nguyên chất. 
Khi vương miện được làm xong, nhà vua nghi ngờ rằng nó có thể pha lẫn bạc và đã hỏi Ác-si-met làm thế nào để biết được báu vật có đúng là vàng nguyên chất không? 
Ác-si-met đã suy nghĩ rất lâu nhưng chưa tìm được ra câu trả lời, mà ngày trả lời vua sắp đến. Một hôm, lúc đang tắm ở một nhà tắm công cộng, nhà bác học bỗng nhận thấy rằng mực nước dâng cao lên khi ông nhảy vào nước. 
Người ta kể lại rằng, lúc đấy bất thình lình ông phát hiện ra phương pháp giải quyết bài toán về chiếc vương miện (*), quá phấn khởi ông vội vàng nhảy ra khỏi bể tắm và vừa chạy trần truồng vừa hét tướng lên: “Eureka!" (Ơreka!- Tôi đã tìm ra rồi). 

Dupon ( Đuy-pông )
Có lần, Đuy-pông viết thư cho bạn: “Bạn thân mến, hôm trước về thăm anh, tôi để quên cái gậy chống ở nhà anh. Khi nào có người lên nhờ anh chuyển nó giúp tôi nhé!”.
Đang lúc dán phong bì, ông nhìn thấy chiếc gậy dựng ở góc phòng. Ông bèn giở phong bì ra và viết thêm: “Tôi đã tìm thấy cái gậy ở nhà tôi rồi. Anh đừng bận tâm nữa nhé!
Sau đó, Đuy-pông lại cho thư vào phong bì, dán lại và gửi đi.

Poincaré ( Poanh-ca-rê)
Tại một hội nghị khoa học, Anh-xtanh gặp  Poanh-ca-rê và nói: “Ngày xưa tôi muốn theo đường làm Toán nhưng rồi phải bỏ. Vì giữa những điều đúng chứng minh được, tôi không biết điều nào quan trọng.” 
 Poanh-ca-rê trả lời: “Còn tôi thì ngày xưa muốn theo Vật lý nhưng sau phải bỏ. Vì trong những điều cho là quan trọng, tôi không biết điều nào đúng”.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj91dLYNc9EwK-kBqZTX38_gb6ysED9kIr46sMnu_kpEsoCqN7DHOltY7Rnew_e7KZjJTLhqs54c4AsP65yEIYASG_R5STRB-Eot0O8cn_hlHCpAKmoYMwsUG-akbPALlnK646zqd1-DLsc/s400/Funny+way+to+teach+Mathematics.jpg



-----------------------------------------------
(*) Thời điểm đó, ông (Ác-si-met) đã phát hiện ra rằng, mực nước dâng lên là do bị thể tích phần cơ thể ông chìm trong nước chiếm chỗ.  Như vậy nghĩa là để chìm một vật thể vào bình đầy nước, thể tích nước tràn ra sẽ bằng thể tích vật thể. Từ đó, ông nghĩ ra: Dùng cách đo thể tích bằng nước để xác định thể tích một lượng vàng nguyên chất có cùng trọng lượng với chiếc vương miện. Nếu thể tích của chỗ vàng và của chiếc vương miện không bằng nhau thì kết luận  vương miện có bị pha trộn nguyên liệu. (Sau này ông đã tiếp tục nghiên cứu sự chìm, nổi của vật thể trong nước thành một Nguyên lý mà sau này được mang tên ông: Nguyên lý về sức đẩy Ác-si-mét)