Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

Tình ca ban mai

HG: Một bài thơ đẹp đến thế! Nhớ đến là không thể không hát lên đôi câu theo giai điệu quen thuộc. Tự tặng cho mình nhân một ngày cuối tuần, cuối thu...

Chế Lan Viên
alt
Em đi , như chiều đi 
Gọi chim vườn bay hết 

Em về tựa mai về 
Rừng non xanh lộc biếc 

Em ở, trời trưa ở 
Nắng sáng màu xanh che 

Tình em như sao khuya 
Rãi hạt vàng chi chít 


Sợ gì chim bay đi 
Mang bóng chiều đi hết 

Tình ta như lộc biếc 
Gọi ban mai lại về 

Dù nắng trưa không ở 
Ta vẫn còn sao khuya 

Hạnh phúc trên đầu ta 
Mọc sao vàng chi chít 

Mai, hoa em lại về... 




(Trích tập thơ Ánh Sáng Và Phù Sa)



----------------------------------------




Em đi, như chiều đi...







Em về, tựa mai về...



alt

Em ở, trời trưa ở...




Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

10 tật xấu "kinh hoàng" của đàn ông Việt

HG: Gớm, chị này viết một bài sôi sùng sục lên như cái chảo dầu. Những tên nào như thế cứ quẳng hết vào chảo đi chị! Nhưng mà em không liên quan đâu đấy! :))


Các ông chồng cần biết rằng: tất cả mọi người vợ đều yêu chồng, đều muốn gia đình êm ấm hạnh phúc cho tới khi không duy trì nổi điều đó nữa.
      Trước hết, tôi xin được giải thích luôn: Tôi có một cuộc sống vô cùng hạnh phúc với một người chồng là đàn ông Việt, vì vậy tôi viết bài này không phải trong tâm trạng cay cú, trả thù gì cả.
     Tôi có một chức vị kha khá trong một doanh nghiệp, tuổi cũng không còn trẻ, vì vậy việc tiếp xúc với các đối tác, khách hàng nam giới đủ thành phần, đủ lứa tuổi cũng cho phép tôi có cái nhìn tương đối về đàn ông Việt Nam.
     Tôi không phủ nhận là có những người đàn ông Việt rất tốt, rất tuyệt vời như hoặc hơn chồng tôi, nhưng phần lớn đàn ông Việt lại có rất nhiều điểm xấu sau đây, mà tất cả xuất phát từ cách nghĩ.
1. Coi thường phụ nữ: "Đàn bà thì biết gì!"
     Xin thưa với các ông, bộ óc của phụ nữ chả thua kém gì các ông cả. Chẳng qua là chúng tôi quá bận rộn với việc nhà, việc chăm sóc con cái và ti tỉ việc vặt khác nên không có thời gian xem ti vi, thời gian nhậu nhẹt chém gió như các ông, nên không thể có được “kiến thức xã hội” như các ông được. Những việc lớn các ông cho mình quyền tự quyết, tự bàn bạc với nhau, phụ nữ chúng tôi có được tham gia đâu mà biết. Cứ thử đổi việc cho nhau xem, các ông chăm con cái, làm việc nhà, chúng tôi làm việc lớn, chắc gì ai đã giỏi hơn ai!
     Chính sự coi thường phụ nữ của các ông đã khiến cho phụ nữ chúng tôi bức xúc, cáu bẳn rồi sinh ra cãi cọ nhau. Tất nhiên chúng tôi muốn thể hiện với chồng là chúng tôi cũng chả kém cỏi gì, mà các ông lại không cho chúng tôi cơ hội, rồi mặc nhiên quy ước với nhau là: "Đàn bà thì biết gì!".
     Khi thấy một phụ nữ nào đó thành đạt, giỏi giang, ngay lập tức các ông nghĩ ngay là nhờ dùng thân xác, dựa dẫm đàn ông thành đạt mới đi lên được. Các ông cùng mấy người đẹp showbiz tạo nên lý thuyết mới à?
2. Coi việc nhà là việc của đàn bà
     Các đức ông chồng ơi, qua rồi cái thời việc nhà đổ hết lên đầu phụ nữ. Các ông nghĩ là mình đi làm 8 tiếng ở công sở rồi thì về nhà không phải làm gì nữa ư? Vậy vợ các ông, những người mà sức vóc không bằng các ông, làm ở công sở cũng 8 tiếng, về nhà lại một núi việc nhà, đêm thì không ngon giấc vì chăm con, con nhỏ, vì sợ con lạnh, lo con đái dầm...
     Những người chồng vô tâm ích kỷ như vậy thì làm sao phụ nữ chúng tôi lúc nào cũng yêu nồng nàn cho được? Các ông nghĩ chúng tôi dốt tới mức chỉ cần mỗi tháng đưa tiền lương thôi là là điều kiện đủ để được vợ yêu à? Vì thiếu tình yêu nên tất cả mọi hành động quan tâm, yêu thương chồng chỉ là nghĩa vụ, là gượng ép. Rồi gượng mãi cũng chán, thành ra chúng tôi mặc xác các ông. Các ông tưởng như vậy là sướng à, vợ không thèm kiểm soát chồng, tức là chả còn tình cảm gì với chồng nữa rồi. Từ không còn tình cảm, chúng tôi cũng sẽ ngoại tình, cũng đi tìm một người đàn ông đích thực biết yêu thương chia sẻ (dù có thể chả bao giờ tìm được).
3. Không có nghĩa vụ gì với bố mẹ vợ
     Tôi chúa ghét cái câu của các cụ để lại mà các ông cứ ra rả suốt ngày “Dâu là con, rể là khách”. Con dâu thì phải cung phụng bố mẹ chồng, bố mẹ chồng nói cấm cãi, lấy chồng là phải tuân theo nhà chồng trong mọi việc. Còn con rể thì về nhà vợ cứ như quan huyện về quê, ai tiếp đón không vừa lòng là có cớ lần sau không về nữa.
     Các ông có biết tình cảm gia đình thì ở đâu cũng như nhau, tình mẫu tử thì chả phân biệt trai gái. Bố mẹ chúng tôi nuôi dưỡng chúng tôi hàng mấy chục năm trời, công lao chả kể xiết, vậy mà muốn về thăm, cho con về ngoại chơi chúng tôi cũng phải xin phép. Bố mẹ chồng ốm đau thì con dâu chăm sóc tận tình, bố mẹ vợ đau ốm thì con rể có bao giờ chăm sóc không?
     Các ông đừng bao giờ dùng từ nghĩa vụ với chúng tôi, chúng tôi tự biết phải làm thế nào, nhưng làm có kèm tình cảm chân thành không thì chả ai ép buộc được chúng tôi cả. Chồng chúng tôi cư xử thế nào để chúng tôi cảm kích, đó mới là việc khó.
4. Phó mặc con cái cho vợ 



     Đành rằng chuyện con cái thuộc thiên chức của người phụ nữ, chúng tôi chả đòi hỏi phải công bằng 100% trong chuyện này. Những gì người mẹ cần phải làm, chúng tôi đã làm mà chả một lời kêu than. Nhưng chuyện đưa con đi chơi, dạy dỗ con học, đưa đón con đến trường, đàn ông đều có tay chân và trí tuệ bình thường đều có thể làm được cả. Tôi được biết có những người đàn ông thậm chí còn không biết con học trường nào, bao giờ nghỉ hè. Các ông không đỡ đần vợ trong việc nhà, rồi cả việc nuôi dạy con cái cũng chả cần đoái hoài. Việc của các ông chỉ là kiếm tiền, giải trí cho sướng bản thân các ông thôi sao? Gia đình đâu chỉ bền vững nhờ nhiều tiền? Đó là lý do các ông chả thể nào có nổi một gia đình hạnh phúc đích thực.
 5. Ghen tị với vợ 
    Vợ cứ kiếm được tiền nhiều hơn, có công việc tốt hơn, chức vụ cao hơn là y như rằng ông chồng sẽ ghen tức và kiếm cách dìm vợ xuống trước mặt người khác. Cứ ông nào vợ giỏi mà chồng có kém hơn tí là các ông lao vào chê bai ông đó, thay vì mừng cho người ta. Các ông cứ mặc định là đàn ông thì luôn phải thắng à? Nếu muốn thắng, hãy lấy người phụ nữ kém cỏi hơn, vì ông không xứng với người vợ đó chứ không phải dìm người khác xuống để tôn mình lên.
6. Ngoại tình như cơm bữa
     Có một thực tế rất buồn cười hiện nay đó là các ông tự đưa ra định nghĩa mới cho việc ngoại tình: nếu cặp hẳn với một em thì mới là ngoại tình, còn việc "bóc bánh trả tiền', chùi sạch mép thì không tính.
     Các đức ông chồng ơi, vậy phụ nữ chúng tôi cũng sẽ thực hiện nếp sống mới theo định nghĩa của các ông nhé?
     Càng ngày tôi càng thấy việc ngoại tình của các ông công khai, trơ trẽn và thường xuyên hơn. Các ông tự bao che cho nhau và tự dựng cho mình một tấm khiên bằng rơm rác. Bản thân tôi không biết đã tiếp xúc với bao nhiêu khách hàng nam có lời đề nghị khiếm nhã. Họ đề nghị và bị từ chối nhưng không hề xấu hổ, lạ lùng thay!
7. Vũ phu
     Hãy tự hỏi mình xem, tại sao một kẻ sức dài vai rộng lại có thể bạo lực với người phụ nữ yếu ớt hơn mình? Khi người phụ nữ không phục, thì đánh đập họ chỉ càng làm họ coi thường các ông hơn mà thôi. Hãy từ bỏ suy nghĩ “Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về đi”. Các ông kém, bằng hoặc hơn chúng tôi vài tuổi, tư cách gì mà đòi dạy chúng tôi bằng đòn roi? Chúng tôi đã đến tuổi tự học rồi, không cần phải dạy!
8. Nhậu nhẹt bê tha, lắm tệ nạn
     Phụ nữ chỉ cần túm tụm ở quán cà phê nói chuyện phiếm với nhau là các ông đã dùng những lời không ra gì để bình phẩm: "Mấy mụ đàn bà lắm chuyện, suốt ngày buôn dưa lê", "ngồi lê đôi mách". Không phủ nhận thói quen thích tám chuyện của phụ nữ, nhưng hãy nhìn lại các ông mà so sánh xem hành vi nào để lại hậu quả nặng nề hơn:
- Các ông đi nhậu nhẹt say mướt, về còn nôn ọe để chúng tôi phải dọn, hình ảnh ông bố say xỉn trong mắt các con chả đẹp đẽ chút nào.
- Các ông hút thuốc, uống bia rượu: không những bản thân các ông bị tác hại mà vợ con các ông cũng bị ảnh hưởng theo. Những đứa con ốm yếu quặt quẹo ra đời sẽ bị đổ cho mẹ nó là sữa không tốt, không khéo nuôi con, nhưng có ngờ đâu là do giống của bố nó đã bị ảnh hưởng bởi đủ thứ thói hư tật xấu từ trước rồi.
- Các ông bài bạc, lô đề (lúc nào cũng bảo chơi cho vui thôi, nhưng các bà vợ chả thấy vui gì cả). Các ông như vậy thì đừng hy vọng dạy được các con của các ông, vì các ông đâu có cho đấy là hành vi xấu. Rồi F1 lại kế tiếp, F2 cũng duy trì, chả bao giờ đàn ông Việt thay đổi được đâu.
9. Ít lãng mạn, kiệm lời khen
     Người chồng mà hàng chục năm sau khi kết hôn vẫn còn duy trì thói quen tặng hoa, quà cho vợ vào những ngày đặc biệt. Ai mà làm thế thì cũng phải giấu nhẹm đi, không thì người khác sẽ cười mình. Ui cha, ngoại tình thì khoe, yêu vợ thì giấu, điều gì đang diễn ra trên đất nước mình thế này?
10. Nói dối


     
     Các ông muốn đi đâu, làm gì các ông cứ đàng hoàng nói với vợ dù vợ cằn nhằn, đừng nói dối. Vì nếu nói dối bị phát hiện chỉ một lần thôi, lòng tin của chúng tôi. Đừng trách sao vợ suốt ngày gọi điện kiểm soát đi đâu, làm gì, đơn giản chỉ là vì các ông đã từng nói dối. Đừng làm không khí gia đình lúc nào cũng nặng nề vì các thói xấu nhỏ nhặt của các ông.
     Trên đây mới là sơ sơ 10 điểm xấu của đàn ông Việt mà tôi cho rằng tất cả xuất phát từ suy nghĩ sai lệch đối với phụ nữ. Từ suy nghĩ sai dẫn đến những hành động sai. Các ông chồng cần biết rằng: tất cả mọi người vợ đều yêu chồng, đều muốn gia đình êm ấm hạnh phúc cho tới khi không duy trì nổi điều đó nữa.
     Đừng vội phê phán vợ trước khi nhìn lại bản thân mình. "Không có lửa thì không có khói".



Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Tên của đóa hồng


HG: Mình mê hoa hồng lắm!  Đúng là một sở thích chả đáng lấy gì gọi là cá tính, mà cũng kể ra... Tại vì cũng đang không chọn được lời mào đầu thế nào khác. Dạo này có mấy vui... nên đầu óc thành ra cũng mít lại.
Nhưng thích là thích loại hoa hồng truyền thống có hương cơ, chứ không phải thứ hoa hồng đẹp như... hoa nhựa vẫn bày bán đầy các shop...  Đó chỉ còn là biểu tượng của hoa hồng, chứ còn đâu là hoa hồng nữa?! 
Và mình còn thích màu "tro của hoa hồng"- thứ màu trong tiểu thuyết bước ra, nhưng đúng là có màu như thế đấy!

TÊN CỦA ĐÓA HỒNG (*)
                                                                                                              Anh Nguyễn


“My sweet rose,” của họa sĩ John William Waterhouse, lấy cảm hứng từ bài thơ 
“Come into the Garden, Maud” của nhà thơ Alfred Lord Tennyson.

     Mỗi năm lại có vài ngày kỷ niệm mà người lười xem lịch nhất cũng có thể nhận ra vì phố phường tràn ngập hoa. Trong muôn loài hoa khoe sắc, nhiều nhất vẫn luôn là hoa hồng. Hoa hồng phổ biến đến mức trở thành nhàm chán với nhiều người, nhưng bù lại hoa hồng lại có lịch sử có lẽ là đa dạng và hay ho nhất trong ngành thực vật. Hoa hồng gắn với tình yêu và sắc đẹp, chiến tranh và tôn giáo, lịch sử và nghệ thuật, y học và… nước hoa. Số lượng những bài thơ viết về hoa hồng có lẽ nhiều hơn tất cả các loài hoa khác cộng lại.

“The birth of Venus,” của Botticelli, 1486.
Những bông hồng đón chào bước chân đầu tiên của
nữ thần tình yêu và sắc đẹp.
     Dựa trên những bằng chứng hóa thạch, hoa hồng đã có tuổi thọ ít nhất 35 triệu năm. Những tài liệu cổ nhất còn lại có nhắc đến hoa hồng có từ 5000 năm trước Công nguyên ở  Mesopotamia (nay là Iraq.) Trong trường ca Illiad của Homer có nhắc đến những bông hồng tô điểm chiếc khiên của Achilles, và nhà thơ nữ Sappho phong hoa hồng là nữ hoàng các loài hoa trong “Ode to the Rose”. Nhưng những người cuồng hoa hồng đầu tiên trong lịch sử là giới quý tộc La Mã. Cơn nghiện này bắt đầu do sự tiếp xúc với dân Ba Tư và Trung Đông. Trong môi trường ưa phù hoa đặc trưng… La Mã, hoa hồng và nước hoa hồng nhanh chóng biến thành biểu tượng  của sự hưởng thụ xa xỉ. Nào những vòi nước phun trào hoa hồng, nào những tấm thảm trải dày hoa hồng, thậm chí tại một buổi yến tiệc của Nero, khách khứa còn ngạt thở vì hàng tấn cánh hồng được tung lên người họ. (Theo cuốn Cultivated Broad Leaved Trees and Shrubs của Krussman, 1977).
 
“The Roses of Heliogabalus,” của Lawrence Alma-Tadema, 1888, vẽ lại một cảnh yến tiệc tương tự của hoàng đế La Mã Heliogabalus. Hoa hồng được gửi từ French Riviera trong suốt bốn tháng ròng để họa sĩ có thể vẽ chính xác từng cánh hoa.
     Theo huyền thoại của người Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư, hoa hồng sinh ra từ chính những giọt mồ hôi của nhà tiên tri Mohammed. Chính vì lẽ đó, hoa hồng đã thay thế hoa sen trở thành loài hoa được thờ phụng ở những vùng mà Hồi giáo lên ngôi. Hoa hồng trở thành biểu tượng cho lòng trung thành và tình yêu vượt lên cả ranh giới sinh tử. Các nhà thơ Ba Tư say sưa ca tụng hoa hồng và ví tất cả những gì tốt đẹp với loài hoa này. Hoa hồng trở nên thần thánh tới mức những nhà thờ Hồi giáo bị những kẻ ngoại đạo làm vấy bẩn chỉ có thể trở nên tinh khiết nếu được cọ rửa hoàn toàn bằng nước hoa hồng! Cả một ngành công nghiệp xoay quanh hoa hồng trỗi dậy ở Ba Tư và đạt đến đỉnh điểm vào khoảng năm 900-1600. Một tài liệu còn sót lại của Ibn Khaldun cho thấy Baghdad đánh thuế Fars 30.000 chai nước hoa hồng một năm. Nước hoa hồng ở đây còn được xuất khẩu tới những đất nước xa xôi như Tây Ban Nha và Trung Hoa. Người Arab còn tiến một bước xa hơn và chiết xuất được tinh dầu hoa hồng – thành phần cơ bản cho ngành nước hoa. Ở thời Trung Cổ, ngoài dầu hoa hồng và nước hoa hồng thì mật hoa, si-rô hoa, và đường hoa hồng còn được dùng trong y học. 
 

Hộp sơn mài có motif Hoa hồng và chim sơn ca –
 một trong những motif phổ biến nhất của nghệ thuật Ba Tư.
    Quay trở lại La Mã, sau khi đế chế sụp đổ, tất cả những gì gắn với sự sa đọa, hưởng thụ, đẹp đẽ đặc thù La Mã đều bị Thiên Chúa giáo chỉ trích. Thánh Clement của Alexandria đặc biệt công kích hoa hồng và nước hoa, coi chúng là những tàn dư ghê tởm của một thể chế xấu xa. Hoa hồng và hoa huệ lily cũng không là ngoại lệ. Việc trồng hoa hồng trước vốn là một thú vui tao nhã dần bị quên lãng, bởi chính các tu sĩ vốn trồng hoa cần cù nhất lại… không được phép. May thay, vua Charlemagne vào cuối thế kỉ 8 đã hạ lệnh đưa hoa hồng vào vườn thượng uyển, và hoa hồng dần trở lại vị thế nữ hoàng. 
   Vào thời Trung Cổ, tất cả các loài cây đều được trồng vì mục đích lương thực hoặc y học, chỉ riêng hoa hồng và hoa huệ lily được ưu ái vì… đẹp. Cái đẹp quả là một công cụ duy trì nòi giống hữu ích, vì nếu không có bàn tay của con người chăm sóc, nhân giống thì hoa hồng đã chịu số phận tuyệt chủng như rất nhiều loài không tên khác. Quan điểm của Thiên Chúa giáo về hoa hồng nhanh chóng thay đổi, thánh Cyprian và thánh Jerome đều ca tụng hoa hồng như một phần thưởng trên thiên đường. Màu đỏ của hoa hồng gắn với máu của các vị thánh tử vì đạo, còn những chiếc gai làm liên tưởng đến chiếc mão gai mà Chúa đã đội trên cây Thập Tự. Trong một câu chuyện về phép màu của Thiên Chúa, thánh Elizabeth thường lén mang đồ ăn đến cho người nghèo, chồng bà là vua Louis của Thuringia nghe lời sàm tấu bèn tra khảo bà nhưng, khi tấm vải phủ làn thức ăn được lật lên thì chỉ có một bông hồng trắng. Vòng tràng hạt của những tín đồ Thiên Chúa cũng hóa ra từ hoa hồng và được gọi là Rosary. Như ta đã biết, cả hoa hồng và hoa huệ lily đều được thu nhận bởi hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo và trở thành biểu tượng cho Đức Mẹ. Một trong những danh hiệu của Đức Mẹ chính là “Mystical Rose.” (Đóa hồng huyền bí.)  
 “Madonna of the Rose Garden,” của Michelino da Besozzo, 1425
     Hoa hồng như một biểu tượng Thiên Chúa có lẽ được miêu tả kỳ diệu nhất trong Paradiso, phần cuối  trong tác phẩm Hài Kịch thần thánh của nhà thơ Dante. Đóa hồng vĩnh cửu khi thì làm bằng vàng, khi lại trắng hơn tuyết, và toàn bộ Thiên đường là một đóa hồng trải dài vô tận, mỗi linh hồn là một cánh hoa, và mùi thơm tỏa ra chính là lời ca tụng Chúa. Đây có lẽ là tác phẩm có sức biểu hiện mãnh liệt nhất về sự gắn kết của hoa hồng và Chúa. Có thể nói rằng hoa hồng là loài hoa có nhiều biểu tượng và biến thể nhất trong tín ngưỡng Cơ Đốc.
   Trong văn hóa Đức, hoa hồng lại gắn liền với linh hồn và cái chết, đó là lý do khiến người Đức thường trồng hoa hồng ở các nghĩa trang và quanh mộ. Trong thần thoại Hy Lạp, hoa hồng là loài hoa của thần Vệ Nữ; ngoài ra thần tình yêu Eros còn “hối lộ” vị thần của sự im lặng để vị thần không “chỉ điểm” những vụ ngoại tình lăng nhăng. Tuy nhiên, chỉ sau khi châu Âu mở cửa đón nhận văn hóa phương Đông qua con đường tơ lụa, ý nghĩa của hoa hồng gắn với tình yêu trần tục mới được lan truyền rộng rãi. Hoa hồng đỏ trở thành loài hoa đồng nghĩa với ái tình nam nữ. Tình dược trong truyện cổ về Tristan và Isolde, một trong những truyện tình kinh điển nhất, được cho là có chứa cánh hoa hồng.  
     

“Lady Lilith,” của Dante Gabriel Rossetti, 1872.
 Nhân vật trong tranh là Lilith, vợ đầu tiên của Adam (theo Do Thái giáo) 
Người mẫu chính là nhân tình của họa sĩ, được vẽ cạnh những bông hồng.


“The Rose Bower,” của Hans Zatzka.
     Hoa hồng không chỉ có ý nghĩa tôn giáo và lãng mạn mà còn có liên quan không nhỏ tới chính trị và chiến tranh. Những cánh hồng xếp lớp khiến người ta liên tưởng đến bí mật, vì thế hoa hồng trở thành biểu tượng của sự kín đáo. Trên trần phòng họp của các hội đồng quân sự nếu có khảm hoa hồng nghĩa là tất cả những người tham gia đều sub rosa – ở dưới hoa hồng, và phải thề giữ bí mật tuyệt đối. Đến tận thế kỉ 19 hoa hồng thường vẫn được trang trí trên trần nhà mặc dù ý nghĩa của nó không còn như xưa. Cuộc chiến tranh kéo dài 33 năm giữa hai nhà Lancaster và York để giành ngai vàng Anh Cát Lợi được gọi là cuộc chiến hoa hồng – “Wars of the roses” – bởi cả hai gia đình quí tộc đều lấy hoa hồng làm huy hiệu – nhà York lấy hoa hồng trắng và nhà Lancaster lấy hoa hồng đỏ. Khi cuộc chiến kết thúc tốt đẹp, một loại hồng lai được trồng để kỉ niệm sự hòa hợp của hai gia đình.  
Tranh của Henry Payne, 1908, 
tả cảnh những người ủng hộ hai nhà Lancaster và York chọn ngắt hoa hồng 
để chứng tỏ lòng trung thành của họ.
     Ngày nay, nhiều ý nghĩa của hoa hồng đã bị lãng quên theo dòng chảy hối hả của cuộc sống, song hoa hồng chưa từng ngừng quyến rũ con người. Cleopatra “dụ dỗ” Marc Anthony bằng hoa hồng. Hoàng hậu Josephine sưu tập hoa hồng và gây dựng vườn hồng lớn nhất ở châu Âu. Công nương Diana dùng loại nước hoa đặt hàng riêng có chứa tinh dầu hoa hồng trắng. Xuyên suốt lịch sử, những người mê đắm đã và sẽ luôn vinh danh hoa hồng – loài hoa nữ tính màu nhiệm.
------------------------------------------------------------
(*)Tựa đề bài viết đặt theo tác phẩm Il nome della rosa của Umberto Eco.

Bài hát  Triệu bông hồng

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Hướng về Hà Nội


Nhạc sỹ Hoàng Dương chia sẻ về bài hát 

"Hướng về Hà Nội"

      Người nhạc sỹ tài hoa ấy năm nay đã gần tám mươi tuổi. Ngồi nói chuyện với ông, ôn lại những tháng ngày xưa cũ, NS Hoàng Dương[*]  bảo khi nói về Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn vật ấy, trong lòng ông vẫn vẹn nguyên những khôn nguôi kỷ niệm… 

Trái tim mãi Hướng về Hà Nội
      “Đó là những năm 1953- 1954, tôi đang hoạt động các mạng tại Đội tuyên truyền văn nghệ Thành nội bộ Hà Nội nên luôn phải trốn trách sự truy lùng của quân địch. Một lần khi đang tá túc tại nhà người dân nơi ngoại thành Hà Nội, tiếng pháo tiếng súng phía bên kia thành phố vẫn dội một bên tai, kháng chiến chưa biết ngày nào toàn thắng, nhớ lại bóng hình người con gái Hà Nội mình thầm yêu chẳng biết có bao giờ còn dịp gặp lại… 
     Tất cả những điều đó đã thôi thúc tôi ngồi vào bàn viết. “Ánh đèn giăng mắc muôn nơi”, “mái trường phượng vĩ dâng hoa”, “thanh bình tiếng guốc reo vui”, “phố phường dãi ánh trăng mơ”… đều là những hình ảnh quen thuộc, khảm sâu suốt một thời tuổi trẻ nên tôi viết rất nhanh, cảm xúc cứ thế tự nhiên đến.”
     Năm 1954, “Hướng về Hà Nội” được công bố qua tiếng hát Kim Tước để rồi sau đó được phổ biến rộng rãi. Nó là lời nhắn gửi của một thế hệ, một tầng lớp thanh niên tri thức thủ đô “gác bút nghiên” lên đường vì nghĩa lớn. Chính vì vậy bài hát mang một vẻ đẹp sang trọng và buồn, đậm chất của những con người thành phố và có thể nói, đây cũng là một bài hát mang đậm… “nỗi buồn tiểu tư sản”- những nỗi lòng mà chúng ta từng gặp trong lớp “người ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” của Nguyễn Đình Thi hay “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” của Quang Dũng (cả hai ông đều là những bậc văn nhân kỳ tài của đất thủ đô)
     “Tôi nhớ có lần Quang Dũng đến chơi nhà tài tử Ngọc Bảo, được nghe ông hát bài hát của tôi, Quang Dũng đã nhờ Ngọc Bảo nhắn với tôi rằng ông rất muốn tôi đến chơi nhà của thi sĩ. Mấy ngày sau tôi tìm đến, Quang Dũng đã ôm lấy và bảo: Cảm ơn Dương, mặc dù mới được gặp cậu lần đầu nhưng tâm hồn của chúng ta đã rất giống nhau. Tớ cảm nhận được rất nhiều sự đồng điệu trong đó”. 
     Nhưng cũng giống như nhiều tác phẩm bị “quy” vào cái “tội”: “mang tính chất tiểu tư sản”, một thời gian dài “Hướng về Hà Nội” không có cơ hội được phát công khai. Không được phổ biến rộng rãi nhưng những lời thơ ấy vẫn âm thầm chảy trong ký ức, trong trái tim của biết bao thế hệ con người Hà Nội. Dù đi xa hay ở ngay tại lòng thành phố, mỗi khi lời hát được cất lên, trong nền nhạc violoncenl trầm đục, mỗi người con của thành phố đều cảm thấy rưng rưng biết bao kỷ niệm.
    Nhà thơ Ý Nhi, dù chưa một lần gặp nhạc sỹ Hoàng Dương, năm 1994, vô tình được nghe tác phẩm này đã không khỏi những xúc cảm: “Hà Nội của nhạc sỹ Hoàng Dương là một người tình. Các tiếng thì thầm “Hà Nội ơi” cứ lặp lại trong bài hát là tiếng gọi người yêu, nó khiến mỗi tấm lòng yêu nhói đau…
     Nhắc chuyện này lại với tôi, nhạc sỹ cười kể thêm, phải hơn bốn mươi năm sau, đến những năm cuối của thế kỷ 20, bài hát mới được “minh oan” và đón nhận được nhiều sự chia sẻ của khán giả. Có nhà phê bình âm nhạc đã không tiếc lời khi nói: “Hướng về Hà Nội” là sự chưng cất của nét tài.

Yêu Hà Nội bằng cách của riêng mình    
      Mỗi người con của Hà Nội đều có cách yêu mảnh đất của mình khác nhau và ông cũng vậy. Tình yêu Hà Nội trong Hoàng Dương là nỗi nhớ nhung về những tháng ngày quá vãng, là thuở gác bút nghiên lên đường cảm tử cho tổ quốc quyết sinh. Là một Hà Nội nhỏ nhắn và dịu dàng (lời của ông) nơi ông chôn chặt mối tình thời trai trẻ với một cô gái Hà Nội, người mà ông đã không có duyên nợ nhưng qua đó đã cho ông có được một bài hát mà như ông thừa nhận: “Cũng là tiếng lòng dành cho mảnh đất quê hương”.
      Tính từ thời điểm bài hát ra đời, đến nay đã hơn năm mươi năm. Một khoảng lặng dài với biết bao biến thiên dâu bể, Hà Nội bây giờ đã to đẹp hơn, vị thế của thủ đô đã được nâng lên tầm quốc tế, nhưng vẫn còn đó biết bao bộn bề cộng việc đòi hỏi sự chung sức chung lòng của muôn triệu người dân để xây dựng vun đắp.
    “Thật khó để biết khi nào mình có thể trả đủ những ân tình cho mảnh đất quê hương. Còn sức khỏe tôi còn viết về mảnh đất này. Cụ thể bây giờ tôi đang chủ biên tập sách “Ca khúc Hà Nội thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21” dày gần sáu trăm trang, như một món quà nhỏ gửi tặng mảnh đất mình yêu quý. Hầu hết các khâu tôi đã làm xong, chỉ chờ thủ tục để phát hành. Đó cũng là một cách yêu Hà Nội của riêng tôi.”
      Nhưng giản dị hơn ông bảo, giữa biết bao công việc đang giang dở nhưng hàng tuần, ông đều cùng một vài người bạn đồng niên khác đạp xe trên các con phố cũ của Hà Nội, tự lắng nghe tiếng thở của thành phố hòa nhịp với trái tim mình để tìm về những kỷ niệm xa xưa. Hoặc như hôm nay chẳng hạn, trước khi ngồi nói chuyện với tôi, ông bà đã cùng nhau đi chợ để chuẩn bị thức ăn cho bữa cơm chiều nhưng quan trọng hơn, được bước đi trong tiếng ồn ào náo nhiệt của chợ búa, giữa khói bụi và tiếng ì xèo của chốn đông người, lắng nghe những thanh âm gần gụi ấy, ông cảm thấy Hà Nội không xa, nó vẫn hiện hữu hàng ngày đây thôi, ngay trước mắt và trong chính trái tim mình.

HG: Mình vừa chứng kiến rồi: nhiều người vẫn còn sợ "dính vào" bài hát này. Họ bị ám ảnh đến thế, dù họ cũng chẳng từng là nạn nhân. Đến lạ! 

-------------------------------------------------------
 [*] Tên khai sinh của ông là Ngô Hoàng Dương, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1933, quê ở Từ Liêm, Hà Nội; công tác tại Nhạc Viện Hà Nội, cư trú tại Hà Nội, là Phó Giáo sư. Đã được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Hoàng Dương là một nhà sư phạm, đồng thời ông là nghệ sĩ biểu diễn và người sáng tác âm nhạc có tên tuổi.
Ông là người có công đầu trong việc xây dựng bộ môn Đàn Violoncelle hơn 40 năm, kể từ ngày đầu của Trường Âm nhạc Việt Nam, góp phần đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ đàn violoncelle. Ông đã viết nhiều tác phẩm cho đàn violoncelle hơm 4 năm, kể từ ngày đầu của Trường Âm nhạc Việt Nam, góp phần đào tạo nhiềuu thế hệ nghệ sĩ đàn violoncelle.
Ông đã viết nhiều tác phẩm cho đàn violoncelle, piano, accordéon, clarinette, hautbois,… được biểu diễn và dùng trong giáo trình các khoa của Nhạc viện, như Bài ca không lời (piano), Vũ khúc mùa xuân, Tây Nguyên tươi đẹp (accordeon), sonatine Bài thơ Hạ Long, hát ru, Giai điệu quê hương, Mơ về trái núi Thiên Thai (cello và piano), tổ khúc Tiếng hát sông hương (cello và dàn nhạc). Nhiều tác phẩm của ông đã được sử dụng trên làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam, biểu diễn trên làn sóng trong và ngoài nước.