Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Tượng "Người suy tư" của Rodin


HG: Mình xem lại bài "Mười quy luật thú vị của cuộc sống" vừa đăng hôm trước, thấy ăn năn vì đã "chôm" cái tên của một trong mười bức tượng nổi tiếng nhất thế giới khi ghi chú cho bức tranh ngộ nghĩnh đáng yêu của  D. Zolan. Đã nhắc đến cái tên "Người suy tư" thì lại không cầm lòng được rồi, đi tìm thêm thông tin mang về đây.

http://www.artcyclopedia.org/art/rodin-thinker.jpg
"Người suy tư" (Le Penseur). Auguste Rodin (1840-1917).  Viện bảo tàng Rodin- Paris

"Người suy tư"
      Nằm ở trong khuôn viên, gần ngay lối vào cửa viện bảo tàng, chễm chệ bức tượng điêu khắc vô cùng nổi tiếng của Rodin mang tựa đề Le Penseur (Người suy tư). Nguyên gốc pho tượng nằm tại Paris, trong khi nhiều phiên bản khác được đặt tại các viện bảo tàng trên thế giới. Một bức tượng nữa  được dựng trên mộ phần của Rodin, theo  di chúc.
      Cằm chống lên mu bàn tay phải, người đàn ông này gập người xuống trong nỗi dằn vặt khủng khiếp. Vóc dáng cuồn cuộn của nhân vật được Rodin lột tả tương xứng với những trằn trọc bên trong của con người này. Sức mạnh của bức tượng người đàn ông suy tư nằm trong cái khốc liệt của nỗi lo sợ trong tâm hồn được ghìm nén lại.

      Người suy tư trầm tư về điều gì ? Có lẽ chỉ có tác giả của nó mới có thể cho chúng ta biết được rõ bí mật nội tâm của một trong những bức tượng bí ấn nhất của nhà điêu khắc.
      Theo Le Figaro (*), thoạt tiên, bức tượng Người suy tư có tên gọi Nhà thơ, là một bức tượng được sản xuất theo đơn đặt hàng của Bảo tàng nghệ thuật trang trí Paris, để đặt trên một khung cửa lớn, được dựng lên để tái hiện lại tác phẩm Hài kịch thần thánh của thi sĩ Dante. Bức tượng mang tên Nhà thơ có mục đích dựng lại hình ảnh của Dante, trước Cánh cửa địa ngục, đang suy tư về số phận của những kẻ bị kết án đày vào địa ngục, được mô tả trong trường ca của ông. Tuy nhiên, rốt cuộc, Người suy tư đã không tới ngồi trên khung cửa địa ngục như dự kiến (**). Bản gốc bức tượng cỡ 71,5 cm, được hoàn thành vào khoảng năm 1880-1882, được trưng bày lần đầu tiên tại Copenhagen năm 1888. Năm 1906, một bức tượng Người suy tư khổ lớn được tặng cho tòa thị chính Paris để đưa ra khánh thành tại điện Pantheon. Sự xuất hiện của bức tượng Người suy tư từng gây ra nhiều phản ứng trái chiều trong công luận Pháp.

Thật giả lẫn lộn.

      Năm 1982, tác phẩm của Rodin được chính phủ Pháp quyết định đưa vào lĩnh vực công. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể sản xuất một phiên bản tượng của nhà điêu khắc, với điều kiện phải gắn vào đó dấu hiệu đây là « bản sao ». Chính từ thời điểm đó mà các tượng Người suy tư của Rodin giả bắt đầu tràn ngập. Trong số những người làm tượng Rodin giả nổi tiếng, phải kể đến « công tước Bourgogne », biệt danh của Guy Hain. Năm 1997, người này đã bị kết án tù 4 năm và 200 000 franc tiền phạt vì tội làm đồ giả, sau khi cảnh sát phát hiện hai mươi tấn tượng giả, trong đó có rất nhiều bản sao Người suy tư. Không phải ngẫu nhiên mà Guy Hain có thể bình yên làm tượng giả trong một thời gian khá dài trước khi bị cảnh sát thăm hỏi lần đầu tiên vào năm 1988. Nhờ danh hiệu của xưởng đúc tượng của dòng họ Rudier, mà Guy Hain mua lại, mà người sản xuất tượng giả này đã có thể cho ra lò hàng loạt bức tượng Người suy tư với chữ ký giả mạo của Alexi Rudier, nhà  đúc tượng quá cố, người đã từng ký hợp đồng đúc tượng cho Rodin.
      Kế thừa xưởng đúc của Rudier, Guy Hain, có thể trong những phút hoang tưởng đã tự coi mình là nhà điêu khắc thiên tài, và quyết định cho sản xuất tiếp những tác phẩm của Rodin, một phần dựa trên những chiếc khuôn đúc xưa kia còn lại. Chính vì thế, giữa tượng giả và tượng thật, rất khó phân biệt. Kỹ thuật đúc cát đặc biệt khiến cho các bức tượng giả có chất lượng rất cao, gần giống như nguyên bản.
       Le Figaro nhận định, bức tượng Người suy tư đã trở thành nạn nhân của chính sự thành công của nó. Một nghệ sĩ thiên tài luôn luôn thu hút những người giả mạo thiên tài. 

Chữ ký của Rodin trên tác phẩm Le Penseur.

----------------------------------------------------------

(*) Le Figaro là một tờ báo của Pháp được sáng lập năm 1826 dưới triều đại của vua Charles X. Đây là nhật báo lâu đời nhất tại Pháp vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Le Figaro được đặt theo tên của Figaro, một nhân vật trong truyện của Beaumarchais. Tòa soạn báo đặt ở số 14, đại lộ Haussmann, ở quận 9 của Paris.

(**) Pho tượng Le Penseur (Người suy tư, tiếng Anh: The Thinker) thật ra là một phần trong loạt tác phẩm Cổng địa ngục. Trong tác phẩm đầu mang tựa đề Les Trois Ombres (Ba bóng người), nhà điêu khắc tạc hình ba tượng người đàn ông xúm quanh lại thành vòng tròn. Cả ba đều cúi đầu hướng nhìn xuống phía dưới, nơi mà những con người đang bị xô vào địa ngục. Ở phía trên là bức tượng khổng lồ của một người đang chìm đắm trong suy tư, tìm câu giải đáp cho thân phận con người. Tuy chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phục hưng, nhưng lần đầu tiên trong ngành điêu khắc người ta mới thấy được cái tư thế ngồi chống cằm như vậy. Toàn bộ bức tượng thể hiện sự trầm ngâm suy ngẫm, từ điệu bộ, cử chỉ cho đến dáng vẻ nét mặt.


"Ba bóng người" (Les Trois Ombres)

      Sự nổi tiếng của tác phẩm này có thể giải thích vì sao khi đến thăm Paris, ngoài bức tranh La Joconde (Mona Lisa) trưng bày ở cung điện Louvres, du khách còn muốn xem tận mắt bức tượng Người suy tư.

(Tổng hợp từ các bài liên quan- Internet).
------------------------------------------------------------------------

Xem thêm các bài liên quan (Nhắp vào tên bài nếu muốn xem):
1. Mười tác phẩm tượng nổi tiếng nhất thế giới.
2. Bức tượng “Người suy tư”: Viên ngọc quí của Musée Rodin
3. Bức tượng « người suy tư » của Rodin : thật – giả lẫn lộn
4. Auguste Rodin

5. Và xem Người suy tư đang ở khắp nơi trên thế giới..., trong chúng ta:

File:Rodin le penseur.JPG


 

  File:Le Penseur Laeken.JPG

http://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/medium/8075771.jpg


http://farm2.static.flickr.com/1389/1384170855_e2f81c2965.jpg


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/96/Le_penseur_de_la_Porte_de_lEnfer_(mus%C3%A9e_Rodin)_(4528252054).jpg/800px-Le_penseur_de_la_Porte_de_lEnfer_(mus%C3%A9e_Rodin)_(4528252054).jpg



http://farm2.staticflickr.com/1009/1467412627_ee5cf9be5a_z.jpg?zz=1



http://farm7.static.flickr.com/6055/6237375787_138138f0c0.jpg



http://farm5.staticflickr.com/4026/4665540519_8791186045_o.jpg




http://www.nella-buscot.com/photos/jardins/saint-paul_rodin.jpg


http://www.ledauphine.com/fr/images/D0C7ADCA-B869-44FA-9E20-96EC42C142A8/LDL_06/le-penseur-de-rodin-au-sommet-de-la-vizelle-(2-700-m-d-altitude)-une-drole-de-rencontre-pour-les-skieurs-photo-le-dl-sylvain-muscio.jpg


http://a2.img.mobypicture.com/16691ec8b583fd3ddde49bc403f32943_view.jpg

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Mười quy luật thú vị của cuộc sống

HG: Nhìn thấy "món" hay hay  này ở "nhà" Văn Ngan tướng công từ mấy hôm, mình ngỏ lời xin bê về. Tướng công Văn Ngan rất xởi lởi bảo rằng tướng công cũng bê từ đâu đó về nên cứ copy thoải mái vô tư. ^.^  Mình ghi rõ "nguồn" của mình như vậy. Còn VN không ghi rõ nguồn gốc từ đâu nữa là tội đâu VN chịu đấy! :))

"Người suy tư (!)" (^.^, tranh Donald Zolan)
1. Quy luật quả táo
Nếu có một thùng táo, gồm cả trái ngon lẫn trái hư, bạn nên ăn trái ngon trước, bỏ những trái hư đi. Nếu bạn ăn trái hư trước, những trái ngon rồi cũng sẽ hư, bạn sẽ vĩnh viễn không bao giờ ăn được trái táo ngon. Cuộc sống cũng vậy.

2. Quy luật niềm vui
Khi gặp chuyện không may, bạn hãy nghĩ đến những điều tốt của nó, bạn sẽ thấy vui hơn. Giống như khi xe bạn bị thủng lốp (hoặc hết xăng), bạn hãy nghĩ may mà xe mình thủng lốp ngay gần chỗ sửa xe (hoặc ngay gần trạm bơm xăng).

3. Quy luật hạnh phúc
Nếu bạn không mất quá nhiều thời gian để nghĩ xem mình có phải là người hạnh phúc không, nghĩa là bạn đang hạnh phúc rồi đấy!

4. Quy luật sai lầm
Con người ai mà không mắc lỗi, nhưng chỉ khi tái phạm lỗi lầm đó, bạn mới phạm phải sai lầm.

5. Quy luật im lặng
Khi tranh luận, quan điểm khó bác bỏ (khó bắt bẻ) nhất chính là im lặng.

6. Quy luật động lực
Động lực luôn xuất phát từ hai lý do, hy vọng và tuyệt vọng.

7. Quy luật nhẫn nhục
Phương pháp nhẫn nhục duy nhất là xem thường nó, không thể xem thường nó thì hãy làm giảm nhẹ nó. Nếu không thể làm giảm nhẹ nó, bạn chỉ có cách chịu đựng nhẫn nhục.

8. Quy luật ngu xuẩn
Ngu xuẩn phần lớn là do chân tay hoặc miệng hành động nhanh hơn cả trí não.

9. Quy luật giá trị
Khi bạn sở hữu một món đồ, bạn sẽ phát hiện thấy món đồ ấy không có giá trị như bạn từng nghĩ.

10. Quy luật hóa trang
Thời gian hóa trang lâu bao nhiêu, đồng nghĩa với việc bạn tự thấy mình cần che đậy thiếu sót nhiều bấy nhiêu.
(Blog Vanngan)

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Có một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời

                                                                                                                   Tản văn
                                                                                                                              Hồ Đăng Thanh Ngọc
Hoa tre. Ảnh Internet       Trong cõi trần, có những loài cây nở hoa đẹp và buồn như những huyền thoại, như những triết nhân. Người ta khó vui được khi nhìn thấy một giàn hoa ti-gôn đỏ như màu máu vẳng về những câu thơ của TTKH. Nhìn hoa sen, lòng người chợt nhận ra lẽ vô thường thanh sạch của kiếp người. Ai đã từng có một đêm thức với hoa quỳnh, hẳn khó cầm được tấc lòng trước hình ảnh cái đẹp quá đỗi mong manh, mau chóng tàn phai. Người xưa một lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt ngàn, đã thảng thốt buông một câu hỏi buồn trong gió: Sao vừa nở ra đã vội bạc đầu thế hở lau ơi?...
       Và có một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết; nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời; nở như những giây phút dọn mình để giã từ thế giới; nở tưng bừng như điệp khúc một giai điệu tráng ca. Loài đó là TRE.
       Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, đó là nơi hội ngộ buồn vui của cả một cộng đồng người, của hàng bao thế hệ. Không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống con người như một thành tố không thể thiếu được. Chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa đã có cây tre trăm đốt. Và dẫu bây giờ nông thôn đã công nghiệp hóa, tre vẫn không thể thiếu được đối với người. Đó là cái đòn gánh có thể đàn hồi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ. Đó là mười sáu vành nón lá của mẹ tảo tần qua nắng qua mưa nuôi ta khôn lớn, của em dấu nụ cười e ấp mối tình đầu. Đó là giàn bí, giàn bầu nặng lòng câu ca “bầu ơi thương lấy bí cùng” mà cha ngồi hóng mát mỗi chiều. Đó là sợi lạt buộc chiếc bánh chưng xanh luôn gợi nhắc truyền thuyết Lang Liêu... Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt.
       Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo Trương Chi làm điêu đứng người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của một dân tộc, mà dân tộc ấy lại đa tình làm sao: Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân con gái chớ nghe đàn bầu! Trên non ngàn Tây Nguyên, hồn tre nứa nhập vào đàn t’rưng, nhập vào đàn klông put, đàn chim đing, đàn đinh pah, và cả ching kram (chiêng tre) nữa... tạo nên âm sắc núi rừng Việt Nam độc đáo, không nơi nào có được. Và trong những ngày hội tưng bừng trên đỉnh non ngàn này, không thể thiếu những ché rượu cần mà những chiếc cần như những chiếc cầu của tình bạn, tình yêu, của men nồng cuộc sống.
       Từ măng non, tre vươn thẳng làm bạn với người, làm ngọn roi dạy dỗ con người, giúp con người bao điều trong cuộc sống, để rồi một buổi sáng kia, tre nở một chùm hoa và chết. Rất hiếm khi được nhìn thấy hoa tre nở. Cho đến nay, tôi cũng chỉ thấy hoa tre nở hai lần. Lần thứ nhất vào năm tám mươi lăm thế kỷ hai mươi. Năm đó, vào một buổi sáng mùa hè, rặng tre la ngà dọc bờ sông Bồ trước làng tôi đột nhiên bừng nở. Cả một rặng tre bung nở từng chùm hoa vàng xuộm màu thổ hoàng. Cái màu đất bình dị nổi lên nhờ màu xanh của lá, bình dị đến nao lòng. Cả lũ học trò chúng tôi hồi đó chiều nào cũng rủ nhau nhìn ra sông vì nghe nói tre nở hoa xong là chết. Nhiều đứa, trong đó có tôi, cố cãi lại lời tiên tri ấy, đến mức phải chia phe thách nhau. Nhưng ngày qua ngày, cả rặng tre từ màu xanh dần chuyển sang ngà. Cho đến một chiều nọ, không tin nổi vào mắt mình khi rặng tre cứ nhạt thếch hẳn đi, chúng tôi chạy ra xem thì thân tre đã khô lại. Trên cao kia, những chùm hoa tre khô cong rủ xuống như một bàn tay tiễn biệt. Bất giác cả bọn cứng lưỡi không nói nên được câu nào, cũng không thấy mấy đứa thắng cuộc yêu sách một điều gì. Trong làng có chú Tin đã ngoài bốn mươi vẫn còn độc thân chưa vợ. Chú xin làng chặt một cây tre về làm đàn bầu. Đêm đêm, tiếng đàn của chú nỉ non vang vọng khắp làng. Chẳng bao lâu sau thì có người chịu cùng chú kết tóc se tơ. Người già nói, tre nở hoa cả rặng như vậy là có điềm lành. Quả nhiên sau đó ít lâu thì không khí công cuộc đổi mới cũng tràn về nông thôn, đời sống của người nông dân có đỡ cực nhọc hơn. Nhưng cũng sau khi rặng tre la ngà ấy chết, làng không còn một cây tre la ngà nào nữa. Bấy giờ cả làng mới nhận ra sở dĩ xảy ra điều đó là bởi do tre la ngà nhiều gai nên ít người trồng.
       Lần thứ hai tôi nhìn thấy hoa tre nở là vào khoảng chỉ vài tháng sau cơn đại hồng thủy tháng 11 năm 1999. Ấy là một hôm giá rét đầu năm 2000, qua khỏi cầu Tây Thành bỗng thấy một bụi tre nhỏ bên sông nở hoa trong mưa. Cũng những chùm hoa tre vàng nhạt như màu đất, vươn giữa trời xanh bất chấp mưa gió phũ phàng, rét buốt, bản lĩnh vô cùng. Sau này tôi lang thang khá nhiều nơi, chú tâm tìm gặp một bóng dáng tre la ngà, ấy vậy đến giờ vẫn chưa một lần thấy lại.
       Bây giờ nghiệm lại, thấy loài tùng bách như người quân tử ẩn dật, tre lại như người quân tử dấn thân. Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người, đến khi hoa tre nở lần đầu tiên, cũng là lúc tre từ giã sự góp mặt của mình trên trái đất. Đó là một cách đi vào cõi chết rất đẹp: cả tre và hoa đều chết đứng như phơi gan ruột cùng trời đất chứ không chịu rủ xuống, lụi tàn như bao loài hoa khác. Cái chết ấy không hề làm cho người ta thấy một chút bi ai nào, ngược lại, nó tạc dáng hình giữa trời đất mênh mông, giữa muôn vàn hoa lá như một triết nhân đã ngộ ra chân lý về lẽ sống chết của con người.

                                                                                    (Tạp chí Sông Hương)
http://img577.imageshack.us/img577/9931/hoatre2.jpg 




http://t3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRZ5u4q2Na1qDXuYnXF5ctu7gp-89lwBeoSGgTOzP4BxvUWGn_g 
  


http://anh.24h.com.vn/upload/news/2009-12-28/1261991030-tre-2.jpg


http://nguyenuyenthu.vnweblogs.com/gallery/10044/Hoa%20tre.bmp 


http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQ3TBwm9ekS3vpwghJT4YTu0SLJZh-27CtPh_uhPSHoSPzub_HP

 
 




Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Thu cảm

HG: Hôm qua mình tranh thủ lại nhà, thấy ao sen nhỏ của ba mẹ đã tàn. Màu xanh mặn mà đã chuyển sang nâu sồng trên cành lá, nhớ ra thế là đã sang thu... Như vẳng có ai đọc bên tai bài thơ của Phạm Công Trứ (hồi trước biết là thuộc liền- sao mà đúng, đẹp và thơ thế!): " Mướp tàn sen cũng đi tu/ Lá tre đã thả một mùa heo may...". Quyết định trưa nay post lên. Chỉ một bài thơ xinh xắn này để đón mùa, còn một chùm thơ thu để dành hẹn chuyên mục một ngày khác... Thu hãy còn dài lắm!



THU CẢM
                                                                       Phạm Công Trứ

Mướp tàn sen cũng đi tu
Lá tre đã thả một mùa heo may
Con sông không ốm mà gầy
Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn
Cuối trời một giọt sao Hôm
Lòng anh vô cớ mà buồn đó em.



http://s1.kythuatso.com/i/2011/07/03/sac-sen-mua-ha-4.jpg
Mướp tàn sen cũng đi tu



Lá tre đã thả một mùa heo may



http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2010/02/01/lo-010210-1.jpg




http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/201007/1735137713-1-SHcan.jpeg


http://www.thanhnien.com.vn/Pictures201210/songhongcannuoc.jpg
Con sông không ốm mà gầy


Hoàng hôn Tam Đảo
Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn...

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Bông hồng cài áo

                                                                                                  Tùy bút
                                                                                                                   Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
http://vn.eiab.eu/wp-content/uploads/2013/01/Thay.jpg
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
       Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không "lớn" lên được. Cằn cỗi, héo mòn.
       Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ.

       Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu.... sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :
                                                                          Năm xưa tôi còn nhỏ  
                                                                          Mẹ tôi đã qua đời ! 
                                                                          Lần đầu tiên tôi hiểu 
                                                                          Thân phận trẻ mồ côi.
                                                                          Quanh tôi ai cũng khóc 
                                                                          Im lặng tôi sầu thôi 
                                                                          Để dòng nước mắt chảy 
                                                                          Là bớt khổ đi rồi...  
                                                                           Hoàng hôn phủ trên mộ 
                                                                          Chuông chùa nhẹ rơi rơi  
                                                                          Tôi thấy tôi mất mẹ 
                                                                          Mất cả một bầu trời.
       Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức : 
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
        Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? hay là tơ trời đâu la miên?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận. 
Công cha như núi Thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra .
          Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương. 
         Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước. 
          Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ ( Mother's Day ) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. 
         Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan. 
         Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!" 
        Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: " Mẹ ơi, mẹ có biết không ?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng. 
          Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. 
          Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi "làm thế nào" nữa! 
         Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: Đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ. 
         Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. 
         Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. "Cắt ái từ sở thân" là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quý báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau. 
        Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: "Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!". Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: "Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương". Để chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn...Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng- để anh sung sướng, thế thôi. 
       Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ. 
        Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.
Sài gòn 1962.

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Sự tích lễ Vu Lan và ngày lễ xá tội vong nhân

1. Xuất xứ lễ Vu Lan

Thành tâm trước cửa bồ đề (Hình ảnh: VNN)
                                                             
        Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
    Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác [1] nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.

     Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".
    Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
    
Ý nghĩa lễ Bông hồng cài áo trong ngày lễ Vu Lan
      "Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa".
(Theo tản văn "Bông hồng cài áo" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh [2])

2. Sự tích ngày xá tội vong nhân

Mâm cúng chúng sinh (Hình ảnh: Chit xinh)
Mâm cúng chúng sinh
      Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".
      A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân".


Hình ảnh: VNN       Lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.



(Theo Vietbao)

-------------------------------------------------------------------------


[1]  Có dị bản kể chi tiết rằng:
     Bà mẹ của Ngài Mục Kiền Liên tên là Thanh Đề, là người mộ đạo. Lần đó bà cúng chùa bát gạo trắng, tự tay lau từng hạt gạo.Phật báomột sư trụ trì chùa sáng mai có một tín nữ đến cúng dâng "báu vật". Hôm sau,bà Thanh Đề đến chùa, quỳ dâng bát gạo nhưng các nhà sư coi thường làm bà giận dữ. Hôm sau bà làm bánh bao nhân thịt chó đi cúng chùa. Phật báo mộng nhà chùa, dặn làm bánh bao chay để tráo đổi. Bánh bao thịt chó đem bỏ ở gốc cây sau chùa (sau nầy số bánh bao đó rã ra, mọc lên đám rau dấp cá). Sau ngày đó, bà Thanh Đề oán ghét nhà chùa, chửi mắng Đức Phật. Bà chết, bị đày xuống địa ngục... Mục Kiền Liên cứu Mẹ, tạo thành sự tích mùa Vu Lan nhớ ơn Mẹ.

[2] Năm 1962 sư ông Nhất Hạnh phổ biến đoản văn Bông Hồng Cài Áo, trong đó ông giới thiệu tục lệ cài một bông hoa trên áo trong ngày Mother’s Day của người Nhật. Ông viết: Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương, không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục lệ cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan. Ông cho biết bông hoa mà cô sinh viên người Nhật cài cho ông trong ngày Mother’s Day ở Đông Kinh là hoa cẩm chướng, không phải hoa hồng.
     Lúc đó Nhất Hạnh chưa phải là một tên tuổi có sức thu hút mạnh trong giới Phật tử trẻ. Chỉ có một số nhỏ sinh viên biết đến ông. Tuy thế, đề nghị nói trên của Nhất Hạnh được một số thành viên trong Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn đón nhận một cách tích cực. Họ chép tay đoản văn Bông Hồng Cài Áo thành thành hàng trăm bản và cho phổ biến ngay trong nội bộ đoàn. Lễ Vu Lan năm đó (1962), đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn thực hiện nghi thức Bông Hồng Cài Áo tại chùa Xá Lợi: họ mời tất cả những người dự lễ nếu còn mẹ cài một bông hoa hồng màu đỏ lên áo, những người mất mẹ cài một bông hoa hồng màu trắng trên áo.
-----------------------------------------------------------

Đọc thêm: Nhà thơ Thái Bá Tân viết:

                              SỰ TÍCH LỄ VU LAN
                
                         Theo truyền thuyết nhà Phật,
                         Bà mẹ Mục Kiền Liên
                         Là người không mộ đạo
                         Báng bổ cả người hiền.

                         Bà không tin Đức Phật
                         Không tin cả Pháp, Tăng
                         Tam Bảo và Ngũ Giới
                         Bà cho là nhố nhăng.

                         Nên bà, sau khi chết
                         Vì tội lỗi của mình
                         Bị đày xuống địa ngục
                         Chịu bao nỗi cực hình.

                         Về sau thành La Hán
                         Tôn giả Mục Kiền Liên
                         Đạt lục thông, ngũ nhãn
                         Nhìn thấu hết mọi miền.

                         Ông thấy mẹ đang đói
                         Dưới địa ngục âm u
                         Bát cơm ăn chẳng có
                         Bị đói khát, cầm tù.

                         Ngay lập tức tôn giả
                         Liền mở phép thần thông
                         Lần xuống đáy địa ngục
                         Đưa cơm cho mẹ ông.

                         Bà này khi còn sống
                         Từng tranh ăn với con
                         Bây giờ xuống địa ngục
                         Thói xấu ấy vẫn còn.

                         Bà vội lấy vạt áo
                         Che bát cơm to đầy
                         Định lẻn đi ăn mảnh
                         Một mình sau gốc cây.

                         Nhưng vừa đưa lên miệng
                         Cả bát cơm, than ôi
                         Đã biến thành cục lửa
                         Cháy hết răng và môi.

                         Dẫu là người hiếu thảo
                         Lại đệ nhất thần thông
                         Mà tôn giả bất lực
                         Không giúp được mẹ ông.

                         Ông quay về Tịnh Xá
                         Tìm gặp Phật Thích Ca
                         Nhờ Ngài chỉ giùm cách
                         Cứu giúp bà mẹ già.

                         Đức Phật nghe rồi đáp:
                         “Mẹ ngươi quá lỗi lầm
                         Nên ngươi không thể cứu
                         Chờ tháng Bảy, ngày Rằm

                         Ngày mọi người hoan hỷ
                         Hãy làm lễ Vu Lan
                         Mời mọi người đến dự
                         Mâm cỗ bày trên bàn

                         Ngay lập tức tôn giả
                         Đúng theo lời Thích Ca
                         Làm lễ Vu Lan lớn
                         Cứu được người mẹ già.

                         Và mọi người từ đấy
                         Vào ngày này hàng năm
                         Tổ chức lễ xá tội
                         Cho tổ tiên lỗi lầm.

                         Về sau, chính tôn giả
                         Đã tự nguyện thành người
                         Trông coi chuyện âm phủ
                         Đầy oan trái sự đời.

                         Khi làm lễ xá tội
                         Cho tổ tiên lầm đường

                         Người ta cúng tôn giả,
                         Bồ Tát Địa Tạng Vương.