Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Hiểu đúng về một số nghi lễ đêm giao thừa

     Trong đêm giao thừa, người Việt thường có các nghi lễ truyền thống như cúng giao thừa, hái lộc, khai bút, xông đất... Song không phải ai cũng hiểu được các nghi lễ này và thực hiện đúng.

      Các lễ này thường được tiến hành vào 12 giờ đêm ngày 30 tháng chạp, tức 0 giờ sáng ngày mồng 1 tháng giêng.
- Cúng giao thừa ngoài trời: Người xưa có quan niệm mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, nên có tục cúng giao thừa ngoài trời. Tuy vậy, việc cúng ngoài trời chỉ nên tiến hành ở đình, đền, chùa hay những nơi công cộng. Với gia đình, chỉ nên cúng giao thừa trong nhà.
- Cúng giao thừa trong nhà: Lễ thường được tiến hành vào giờ Chính Tý, tức đúng 12 giờ đêm hôm 30 tháng chạp. Lễ Trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao thừa. Ở nhà riêng, ngoài mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên (hay thờ Phật), người ta thường lập thêm mâm cúng để ở cái bàn con bên dưới. Khi thắp hương vẫn cắm trên bàn thờ, chứ không cắm vào mâm cúng.

- Bày trí bàn thờ ngày Tết: Chúng ta hay dùng từ “trang trí bàn thờ”, nên thành ra nghĩ rằng càng đẹp càng tốt, càng đầy đủ càng tốt, nhưng thực ra “mâm cao cỗ đầy” lại không có lợi. Thực ra bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày. Do vậy những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa.
      Nếu trong gia đình đang đặt bàn thờ gia tiên cùng phật hay thờ mẫu thì cần tách riêng các bàn thờ, trong bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt. Đồ lễ trên bàn thờ, quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi và nước sạch.
      Tuyệt đối cần tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Riêng ngày Tết thì có thể để đồ cúng đến mùng 5. Không nên để lễ mặn lên bàn thờ. Mâm cơm cúng ngày Tết cũng không để trên bàn thờ, mà nên để ở cái bàn con bên dưới.
- Mâm ngũ quả: Là đĩa đựng năm loại hoa quả khác nhau, thường đặt lên ban thờ hoặc trang trí ở bàn tiếp khách. Nên chọn các loại hoa quả thông dụng, ăn được và đẹp mắt. Nếu bày trên bàn thờ gia tiên, cũng có thể chọn loại hoa quả mà gia tiên thích ăn khi còn sống (nếu có).
      Gần đây nhiều người hay gán ghép phong thủy cho mọi lĩnh vực, từ hoa thờ đến mâm ngũ quả theo phong thủy, rồi suy luận không căn cứ. Chẳng hạn lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho sự đầy đủ, phát triển; bưởi, dưa hấu, căng tròn, tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn. Cam, nghĩa gốc là đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi lại bị suy diễn thành cam chịu, chuối bị suy diễn thành "củ chuối". Thậm chí còn sa đà vào tâm linh không cần thiết như đếm nải chuối có quả lẻ mới mua, đếm phật thủ có lẻ nhánh mới được hay tổng số quả trên mâm phải hợp mệnh chủ nhà... Chính sự suy luận quá đà làm nhiều người mất thời gian chọn hoa quả để bày trí.
      Điều lưu ý là mâm ngũ quả ngày Tết thường để lâu hơn bình thường, do đó không chọn loại chín quá vì sẽ nhanh hỏng, tuy vậy cũng không được chọn quả quá xanh chỉ cốt để cho lâu. Nên nhớ rằng mâm ngũ quả cúng gia tiên thì phải là hoa quả vừa đủ chín có thể ăn được. Nhiều người hay lấy câu "miễn thành tâm là được" để ngụy biện, khi thực hiện lại chạy theo hình thức, khoe mẽ với người ngoài, mà không chú trọng đến chất lượng của hoa quả để thờ cúng. Vì thế, hoa quả tươi mua về, chưa để bày biện thành mâm ngũ quả cũng cần để cẩn thận, trang trọng, chứ không nên "tống" vào tủ lạnh, hay vứt lăn lóc ở góc bếp, rồi đến tối 30 mang ra bày.
- Tục hái lộc: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, thành đạt hơn. Lộc là một cành non ở gần đình chùa, được hái ngay phút giao thừa để mang về nhà. Tuy vậy, không nên khuyến khích tục này, bởi lẽ mỗi gia đình đều đã có hoa đẹp cắm Tết như hoa đào, hoa mai… Bẻ các cành non làm cho nhiều cây cối trơ trụi, nhất lại là cây ở đình chùa là không nên. Gần đây, nhiều người cũng đã thay việc bẻ cành lộc, bằng cách mua cây hoa, cây mía…
- Tục xông nhà: Người xông nhà là người bước chân đầu tiên vào nhà mình sau phút giao thừa. Do muốn được may mắn, mọi người hay tìm người hợp tuổi đến xông nhà. Nhưng thuyết về hợp tuổi cũng lắm, nên nhiều người vẫn cứ phân vân không biết mời ai, và rồi nhiều khi đành tự mình xông nhà cho xong. Thực ra bình thường chủ nhà tự xông nhà cho mình cũng được, còn khi vào năm xấu, như năm tuổi, hoặc phạm sao xấu thì cũng nên nhờ người hợp tuổi với mình, hoặc tìm con cháu trong nhà hợp tuổi với mình để xông nhà, sẽ giúp cho mọi chuyện trong năm đó được thuận lợi hơn. Cũng do nhiều người kiêng, chỉ muốn người hợp tuổi xông nhà cho nên sáng mùng 1 cũng ít người đi chúc Tết, vì sợ không hợp tuổi gia chủ, mang lại điềm xấu.
- Tục khai bút: Ai cũng muốn năm mới vận hội mới, làm ăn suôn sẻ, nên trước giao thừa hay lấy bút, sổ tay mới, mong muốn làm gì trong năm mới thì ghi vào sổ. Qua giao thừa, giờ Tý - Sửu hạ bút và sổ xuống. Khai bút khác với khai nghề, thuần túy là ghi mong muốn của cá nhân, hoặc gia đình vào quyển sổ, vừa để may mắn, vừa tăng quyết tâm thực hiện mục tiêu đề ra.
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng Phòng Phong thủy Kiến trúc - ĐHXD

Cái nạn mừng tuổi

                                                                                                                Vương Trí Nhàn
Câu chuyện mồng một đi chúc tết bè bạn, dưới con mắt nhà văn Nguyễn Công Hoan hơn bảy mươi năm trước.
      Ngòi bút đã viết nên những Oẳn-tà roằn, Đôi giày mất dạy, Cô Kếu gái tân thời.... vốn nhạy cảm với những gì là phi tự nhiên, éo le, kỳ cục.Trong những sáng tác viết về tết, thói quen ấy vẫn được ông khai thác triệt để.
      Sở dĩ một thiên truyện như Người ngựa và ngựa người để lại trong bạn đọc cái dư vị chua xót là do nó đã nêu lên một nghịch cảnh mà trong những khi bận rộn tết nhất, người ta ít để ý: ấy là giữa lúc thiên hạ náo nức vui tết với gia đình, có những kẻ vẫn phải lang thang kiếm sống. Và tình thế lại càng thê thảm hơn, khi xảy ra cảnh đò nát đụng nhau, tức là trong cơn tuyệt vọng, hai kẻ khốn khổ đó (ở đây là một phu xe ế hàng và một gái nhà thổ không bói ra khách) còn lừa lọc nhau, rút cục là người nọ làm khổ người kia, và đứng ngoài nhìn, chúng ta chỉ có cách cười ra nước mắt.
      Trong một truyện ngắn mang tên Năm mới tôi mừng ông (in trong một tập sách tết, 1943) Nguyễn Công Hoan lại trình ra một cảnh trớ trêu khác.
     Lần này, ông lấy một chuyện chính ông đã trải để kể với bạn đọc.
Ấy là một lần, đúng mồng một tết, ông tới thăm nhà một đồng nghiệp dạy học tên là Định.
Người này với ông không thật thân nên không mấy khi ông đến chơi.
 Mà ông lại không nhớ số nhà, chỉ ang áng quãng ấy quãng ấy.
      Vào cửa, ông được con sen trong nhà tưởng là khách quen nên mời ngay lên gác để gặp chủ và trong khi đang lên cầu thang, ông được chủ mời làm một chân tổ tôm.
 Nghe tiếng, đã hơi ngờ ngợ, đến lúc chủ nhà ngẩng mặt lên, mới biết đã vào nhầm nhà, đành xin lỗi quay ra. Lúc ông xuống thang còn nghe chủ nhà mắng đầy tớ:
- Con ranh con, cửa cứ mở toang, ông Hoan đấy chứ, giá là kẻ gian thì có chết không?
 Đến nước này, tự nhiên tác giả cảm thấy bẽ bàng vô hạn: “Như bị một phát đạn nữa, tôi vội vàng trút trả miếng trầu và điếu thuốc lá, cút thẳng một mạch”. 

      Kể ra đây cũng là một tình thế trớ trêu, mà người ta ai cũng có thể gặp, nhất là những khi sơ ý. Có điều, đằng sau câu chuyện mua vui, cái dụng ý của Nguyễn Công Hoan trong thiên truyện này  ở chỗ khác.
 Mặc dù là một người ghét lý luận, lại càng ghét sự dông dài trong khi thuật truyện, song trước khi kể lại cái “kỷ niệm để đời” nói trên, Nguyễn Công Hoan vẫn để ra một đoạn dài gọi là trữ tình ngoài đề mà chúng tôi muốn chép lại đầy đủ như sau:
 “Tối ba mươi tết năm ấy, tôi cố xong tất cả các công việc để đến hôm sau, chịu cái tai nạn nó làm mất cả ngày: nạn tiếp bạn đến mừng tuổi và nạn mừng tuổi bạn.
 Việc đi mừng tuổi nhau hôm mùng một đầu năm thật là một cái nạn. 
Còn gì khổ cho bằng phải tiếp những người hoặc đi đến nhà những người quanh năm chẳng gặp nhau lần nào, trừ tết nguyên đán. Chuyện đã chẳng có gì để nói, mà cứ phải cười gượng, nịnh nhau sằng, rồi mắt trước mắt sau chỉ muốn chuồn cho mau đến nhà khác để cũng làm cái công việc nhạt nhẽo ấy. 
 Còn gì dơ dáng cho bằng mình vừa ở nhà một ông bạn chẳng thân gì, đã không có chuyện để nói, mà độ nửa giờ sau, ông bạn ấy đã lại nghễu nghện đến nhà mình cũng chẳng để nói một chuyện gì hơn là để mình khỏi trách là xử quỵt. 
Cho nên, ngày mồng một tết, ở nhà nhưng nói dối là đi vắng, tức là đã làm một việc nghĩa rất to tát. Nhiều ông chỉ cần dò xem mình không có nhà lúc nào là đến tót ngay, để quảng lại trên bàn tấm danh thiếp rồi đi cho mau, để lại quẳng vào nhà khác tấm danh thiếp. 
Đến nhà người ta mừng tuổi mà được chủ đi vắng, nhiều người cho là một sự may. 
Vậy mà lối giao thiệp giả dối này lại rất cần cho những chỗ bè bạn sơ sơ. Vì quanh năm chẳng đến nhà nhau, hôm mồng một tết cũng chẳng đoái hoài đến nhau nốt, ấy là tỉnh bằng hữu đi đứt”.

      Không chỉ các nhà nghiên cứu mà trước tiên, bản thân Nguyễn Công Hoan đã chú ý tới một nét tiểu sử bản thân nó quy định tính cách con người ông. Ấy là ông xuất thân từ một gia đình phong kiến có nền nếp, thứ phong kiến thanh đạm, biết giữ đạo trung dung, và thường có một chút bảo thủ trong cách nhìn nhận sự đời.
      Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã khái quát :
 “Nếu có quan hệ đối lập giữa nam và nữ thì ông đứng về phía nam. Giữa bố mẹ và con cái thì ông đứng về phía bố mẹ. Giữa vợ cả và vợ lẽ thì đứng về phía vợ cả”.

      Thế thì giải thích làm sao cái trường hợp phá cách nói trên, nghĩa là thái độ ngán ngầm ra mặt của ông với một nghi lễ thiêng liêng và phổ biến trong ngày tết?
Ở đây, chúng ta phải đối chiếu giữa nghi thức và cái cách người ta thường tiến hành nó để cùng nhận chân ra một sự thực:
--Nghi thức ra đời và tồn tại là để bảo đảm tính chất trang nghiêm của một buổi lễ. Trong những quy định đôi khi rườm rà, cổ nhân cốt lưu ý con cháu rằng đây không phải là một chuyện thông thường mà là một dịp đặc biệt.
Các nhà nghiên cứu về Nho giáo thường nói lễ là để bày tỏ cái thành ý, kính ý.
      Trong cuốn sách viết về Khổng Tử, từ con mắt nhìn của con người hiện đại, Nguyễn Hiến Lê cũng nhấn mạnh “các nghi thức mà ngày nay chúng ta cho là phiền phức chính là có mục đích phát dương những tình cảm đôn hậu của ta”.

      Tuy nhiên, là một sản phẩm của lịch sử, nghi thức cũng không tránh khỏi một tình trạng mà ngày nay, ta gọi là sự tha hoá, tức là hình thức không đi kèm với nội dung, và ở một số người trong một số trường hợp, sự cảm động thiêng liêng càng ít, thì nghi thức càng trở nên cầu kỳ rắc rối.
 Nghi thức trong những ngày tết cũng không tránh khỏi sự biến dạng đó.
 Sự thực này không lọt khỏi con mắt quan sát tinh quái của Nguyễn Công Hoan.
      Trong ông không chỉ có con người trọng lễ giáo mà còn có con người thực sự cầu thị, chán ghét mọi chuyện phi tự nhiên, giả dối, cho nên ông đã lên tiếng. Mà khi đã nói, thì ông nói hơi trắng trợn , đến mức như là bất chấp tất cả.

      Về phần mình, giờ đây đọc lại thiên truyện, chúng tôi cho rằng một mặt nghi thức rất cần, bao giờ cũng cần, mặt khác, những gì quá ư cầu kỳ mà lại vô bổ nên được xem xét lại.
 Và nhất là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không nên tiến hành nghi thức một cách giả tạo.
 Với lối nói có phần cực đoan của mình trong thiên truyện nói trên, Nguyễn Công Hoan còn kể là ông chia bạn bè ra làm bốn loại:
“--Hạng nhất là các bạn quen xoàng hoặc hay giận
-- Hạng nhì là các bạn quen xoàng nhưng đại lượng.
-- Hạng ba là các bạn thân vừa 
-- Hạng bét là các bạn thân”.
Và mỗi năm ngày mùng một tết ông cư xử như sau:
 ” Tôi chỉ cần đi chúc tết các bạn hạng nhất, còn từ hạng nhì trở đi, không tết năm nào tôi xử lại sòng phẳng”.
      Chúng tôi chép đoạn văn này ra đây, không phải để... khuyên bạn đọc làm theo, mà là để bạn đọc tham khảo và tìm ra cách đi chúc tết tốt nhất và phù hợp nhất với bản thân.

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Một mùa xuân nho nhỏ

HG: Bài ca với bản thu âm giọng hát Kim Phúc đã quá thân thuộc, vượt qua thời gian, in đậm trong tâm trí... Với riêng mình, trong mỗi dịp tết đến xuân về, có cảm giác thiếu đi giai điệu ấy thì những ngày tết- nói rộng ra là những ngày xuân- sẽ không trọn vẹn. 
 
                          Sáng tác nhạc: Trần Hoàn; Lời thơ: Thanh Hải; Trình bày: NSƯT Kim Phúc.


Khúc hoan ca thăng hoa từ nước mắt
  Nguyễn An Định

      Trong số các tác phẩm thơ từng được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc, bài "Một mùa xuân nho nhỏ" (phổ thơ Thanh Hải) là một trường hợp đặc biệt. Đặc biệt không phải vì nó hay hơn các ca khúc khác, như "Mưa rơi" (phổ thơ Tố Hữu), "Lời ru trên nương" (phổ thơ Nguyễn Khoa Điềm), "Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh" (phổ thơ Đỗ Quý Doãn) - vì điều này thật không dễ "đong đếm". Nó đặc biệt vì khi ca khúc hoàn thành, tác giả phần thơ đã qua đời, không được chứng kiến sự thăng hoa của tác phẩm mình để lại. Và đặc biệt vì đây là bài thơ hiếm hoi khi đi vào ca khúc của Trần Hoàn đã được giữ gần như nguyên văn.

     Trước đây, trên Báo Bình Định số ra ngày 26/11/2003, tôi có đọc được bài viết "Trần Hoàn - cánh chim phiêu bạt thời gian đã về cõi thiên thai". Tác giả bài viết, mặc dù là một nhà phê bình âm nhạc rất năng nổ, song tiếc là lại đưa ra những thông tin không chính xác về xuất xứ ra đời của ca khúc "Một mùa xuân nho nhỏ": "Vào năm 1975, giữa lúc chúng tôi đang ngỡ ngàng, tràn ngập niềm vui chiến thắng, niềm vui giải phóng thì lại nghe tha thiết: "Mùa xuân! Một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời…". Bài thơ của Thanh Hải đã được Trần Hoàn đồng cảm đến từng hơi thở. Một cảm giác lâng lâng rất thực, không "đại ngôn" dẫn vào hồn người đang thanh bình phơi phới". Có lẽ, với một cảnh trí rất đỗi thanh bình của hoa tím, sông xanh, của tiếng chim thánh thót…; với ca từ rộn ràng náo nức  mang cái phấn chấn của lòng người trước một "Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Vững vàng phía trước"; rồi với mấy câu kết đậm cảm xúc ngất ngây trước cảnh núi sông liền một dải: "Nước non ngàn dặm mình/ Nước non ngàn dặm tình…" đã tạo cho tác giả bài báo nói trên một sự "bé cái lầm" như vậy? Kỳ thực, đây là bài thơ được nhà thơ Thanh Hải sáng tác vào cuối năm 1980, là thời điểm rất khó khăn của đất nước và của bản thân ông, khi mà ông đang phải ngày đêm chống chọi với căn bệnh ung thư gan.
     Nhà thơ Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Ông sinh năm 1930 tại Hương  Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông và nhạc sĩ Trần Hoàn (tên thật là Nguyễn Tăng Hích, sinh năm 1928 tại Hải Lăng, Quảng Trị) là đôi bạn thân thiết cùng sống và chiến đấu tại Mặt trận Trị Thiên Huế những năm kháng chiến đầy gian khó. Trước khi mất (ngày 15-12-1980), Thanh Hải là Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (tên gộp của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) và Trần Hoàn đang là Trưởng Ban Tuyên huấn Bình Trị Thiên kiêm Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh.

     Nhạc sĩ Trần Hoàn kể: Một hôm, ông vào thăm Thanh Hải tại bệnh viện, thấy Thanh Hải đang đánh vật với chữ nghĩa để gắng hoàn thành bản thảo tập trường ca "Hành khúc người ở lại". Ông nói nhỏ với bạn: "Thôi, Hải ơi, hãy nghỉ đi. Đừng suy nghĩ nhiều và thức đêm sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe đó". Thanh Hải đáp: "Cảm ơn anh, nhưng cuộc sống có ngừng phút nào đâu và cảm xúc cũng không ngưng đọng lại".

     Thanh Hải là một nhà thơ giàu nghị lực. Càng ý thức được mối hiểm nghèo của bệnh trạng ông càng như chạy đua với thời gian. Trong bức thư gửi một đồng nghiệp đang làm công tác xuất bản ở ngoài Bắc, ông tâm sự: "Tôi luôn luôn có cái ám ảnh của một người đau bệnh hiểm nghèo rằng, không biết mình sẽ nằm xuống lúc nào, nằm xuống để rồi không dậy nữa. Lúc đó để lại bao nhiêu chuyện dở dang, trong đó có những tác phẩm… Khi có điều kiện, người cảm thấy thoải mái đôi chút là tôi liền ngồi vào bàn. Tôi tự nói: Phải sống những ngày tháng cuối có ích để khi mất đi, mình vẫn làm việc đến giờ chót".

     Như vậy là, suốt nhiều ngày liền, nhà thơ cứ vật vã, run run tay bên những trang bản thảo. Bà Thanh Tâm, vợ ông cũng không biết chồng mình viết gì. Chỉ đến khi nhà thơ trút hơi thở cuối cùng, mọi người mới xúc động được biết, một trong số đó là bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ", và một bài ông viết tặng vợ: "Anh nằm mà ao ước/ Trở lại với cuộc đời/ Dù đi lại được thôi/ Cùng em vui ngày tháng/ Từ khi anh nằm xuống/ Đời có em dịu hiền…". Đây được ghi nhận như bài thơ tình cuối cùng của đời thơ Thanh Hải.

     Ngày tiễn đưa nhà thơ Thanh Hải trở về Đất Mẹ là một ngày mưa buồn. Nhiều bạn bè, đồng chí và những người yêu thơ đã đi sau linh cữu ông, tác giả của thi phẩm "Mồ anh hoa nở" nổi tiếng một thời… Thi hài nhà thơ Thanh Hải được an táng tại một nghĩa trang ở dốc Nam Giao, là mảnh đất mà nhà chí sĩ Phan Bội Châu mua từ thời Cụ bị giam lỏng ở Huế, với ý nguyện dành để chôn cất các nhà yêu nước và cách mạng ở Huế. Bên cạnh mộ Thanh Hải là mộ của các bậc đàn anh như Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều… Nhạc sĩ Trần Hoàn thay mặt Ban tổ chức tang lễ đọc điếu văn. Khi ông đọc được nửa chừng thì bà Thanh Tâm chuyển cho ông bản thảo bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Trần Hoàn mắt kính nhòe lệ. Ông vừa đọc vừa nghẹn ngào thổn thức khiến những người dự lễ tang cũng không giấu được tiếng nức nở, nhất là đến đoạn kết bài thơ thì tất cả đều òa lên, hòa cũng tiếng gió mưa thao thiết…

     Sau lễ hạ huyệt, Trần Hoàn ngồi im lặng hồi lâu bên mộ bạn. Ông đọc lại bài thơ, thấy hối thúc một nỗi niềm cần phải đáp đền bằng… âm nhạc.

     Đây là nguyên văn bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải: "Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc/ Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời/ Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng/ Mùa xuân người cầm súng/ Lộc giắt đầy quanh lưng/ Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ/ Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao/ Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước/ Ta làm con chim hót/ Ta làm một nhành hoa/ Ta nhập vào hòa ca/ Một nốt trầm xao xuyến/ Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời/ Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc/ Mùa xuân ta xin hát/ Câu Nam ai, Nam bình/ Nước non ngàn dặm mình/ Nước non ngàn dặm tình/ Nhịp phách tiền đất Huế".

     Nếu so sánh với phần ca từ của bài hát "Một mùa xuân nho nhỏ" của nhạc sĩ Trần Hoàn, ta sẽ thấy có một số thay đổi nhỏ, và sự thay đổi đó rất hợp lý. Như ngoài việc thay đổi để thuận cho việc hát như đảo "Nhịp phách tiền đất Huế" bằng "Đất Huế nhịp phách tiền"; đảo "Ta nhập vào hòa ca/ Một nốt trầm xao xuyến" bằng "Một nốt trầm xao xuyến/ Ta biến trong hòa ca" thì người nhạc sĩ tài hoa đã thay một đôi chữ như: "Tôi đưa tay hứng về" (thay vì "Tôi đưa tay tôi hứng"); "Vững vàng phía trước" (thay vì "Cứ đi lên phía trước"); "Lộc trải dài nương lúa" (thay vì "Lộc trải dài nương mạ") nghe cho… thơ hơn. Ngoài ra, Trần Hoàn cũng bỏ hẳn mấy cặp câu như: "Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao" và "Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc". Sự thực, đây là những câu nói hơi… kỹ, làm ảnh hưởng tới chất khơi gợi của bài thơ, bởi thế, nó hóa… thừa, và việc tước bỏ những câu này càng làm cho bài hát thêm trong trẻo, thanh thoát mà thôi.

     Theo ông Nguyễn Trường Đàn kể lại trong một bài viết thì một hôm, nhạc sĩ Trần Hoàn đến Đài Phát thanh tỉnh rất sớm. Ông nói cho ông vào phòng thu nhạc. Anh em dẫn ông vào phòng ghi âm lớn. Ông đến bên chiếc đàn piano cũ kỹ, ngồi xuống, mở nắp đàn ra, dạo mấy nốt rồi lắc đầu: "Tiếc quá, đàn hỏng rồi". Sau này mọi người mới biết ông vừa sáng tác xong bài "Một mùa xuân nho nhỏ". Ông muốn bài hát được dàn dựng trước nhất ở Huế, nhưng vì không có phòng thu đạt chuẩn nên ông phải chuyển ra Hà Nội. Bài hát sau đó đã vang xa, chinh phục khán giả cả nước từ làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam (hiện bài hát đang được sử dụng làm nhạc hiệu của Đài Phát thanh Thừa Thiên - Huế).

      Để kết thúc bài viết này, xin được trích ra đây đôi dòng cảm nhận của bạn Lê Bích - một thính giả - viết trong một đêm Tết Hà thành: "Trước khi chết nhà thơ Thanh Hải đã dành hết tâm huyết cho bài thơ này… và tôi thế hệ đi sau ông đón nhận những cảm xúc đó, trân trọng nó… và tôi cũng đã yêu da diết cuộc sống này như ông. Giờ đây tôi cảm thấy thêm ý nghĩa trong câu nói của nhà thơ Kahil Gibran: Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy có thêm ngày mới để yêu thương".

     Với tôi, bài thơ "Một mùa xuân nho nhỏ" thực sự là một "tiếng hát con thiên nga trước khi chết" của nhà thơ Thanh Hải
VNCA 

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Hoa Mai nhà Hoa giấy...

HG mua chậu mai từ tết năm ngoái, cũng chẳng biết chăm sóc gì đâu. Vậy mà cây vẫn cho mình hoa  đây! Yêu quá yêu quá!!! <3 :-)


 




                           CÁO TẬT THỊ CHÚNG
                                 Mãn Giác Thiền Sư
                            Xuân khứ bách hoa lạc
                            Xuân đáo bách hoa khai
                            Sự trục nhãn tiền quá
                            Lão tòng đầu thượng lai
                            Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
                            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
                              (Thanh Từ -dịch: 
                            Xuân đi trăm hoa rụng
                            Xuân đến trăm hoa cười
                            Trước mắt việc đi mãi
                            Trên đầu, già đến rồi
                            Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                            Đêm qua sân trước  một cành mai.)

MAI TRẮNG
                                                           Vũ Hoàng Chương
                                                            Xuân mới ba mươi sáu nõn nường
                                                            Riêng cành mai cũ chiếm yêu đương.
                                                            Dài sông nghĩa ấy tình cao núi
                                                            Pha tuyết thân này mặt nhuốm sương.
                                                            Chẳng đợi Đông quân làm Đạo chủ
                                                            Vẫn là Hoa hậu sánh Thi vương.
                                                            Giang Nam mộng lẫn vào Giang Bắc
                                                            Trời bốn phương lòng chỉ một phương.


VỊNH HOA MAI TRẮNG
                                                                       Sương Nguyệt Ánh 
                                                 Non Linh đất phước trổ hoa nhân
                                                 Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
                                                 Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
                                                 Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
                                                 Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
                                                 Vóc ngọc mình băng hắt khói trần
                                                 Sắc nước hương trời nên cảm mến
                                                 Non linh đất phước trổ hoa thần.



Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Sự tích ngày ông Công ông Táo


http://hoachinh.files.wordpress.com/2011/01/tao-quan.jpg%3Fw%3D400%26h%3D303 Sự tích 1
      Truyền thuyết xưa kể lại có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau, mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó, người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm, vào ngày 23 tháng Chạp, đang đốt vàng mã ngoài sân thì thấy một người ăn xin bước vào, nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho.
      Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức lao vào bếp lửa, tự vẫn. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, lao vào lửa nốt! Trời thấy cả ba người đều có nghĩa nên phong cho làm "vua bếp". Và từ đó, dân gian mới có câu ca rằng:
"Thế gian một vợ một chồng/Chẳng như vua bếp hai ông một bà"
Sự tích 2
     Theo người Việt Nam, Táo quân là chức Ngọc Hoàng thượng đế trao cho ba người có mối tình thâm nghĩa nặng: nàng Thị Nhi và hai chàng Trọng Cao, Phạm Lang. Thị Nhi có chồng là Trọng Cao. Tuy ăn ở mặn nồng tha thiết với nhau, nhưng mãi không có con. Vì vậy, dần dà Cao hay kiếm chuyện xô xát dằn vặt vợ.
     Một hôm, chỉ vì một chuyện nhỏ, Cao gây thành chuyện lớn, đánh Thị Nhi và đuổi đi. Nhi bỏ nhà, lang thang đến một xứ khác và sau đó gặp Phạm Lang. Phải lòng nhau, hai người kết thành vợ chồng. Phần Trọng Cao, sau khi nguôi giận thì quá ân hận, nhưng vợ đã bỏ đi xa rồi. Ray rứt và nhớ quay quắt, Cao lên đường tìm kiếm vợ.
     Ngày này qua tháng nọ, tìm mãi, hết gạo hết tiền, Cao phải làm kẻ ăn xin dọc đường. Cuối cùng, may cho Cao, tình cờ tìm xin ăn đúng nhà của Nhi, nhằm lúc Phạm Lang đi vắng. Nhi sớm nhận ra người hành khất thân tàn ma dại đúng là người chồng cũ của mình. Nàng mời vào nhà, nấu cơm mời Cao. Đúng lúc đó, Phạm Lang trở về. Nhi sợ chồng nghi oan, nên giấu Cao dưới đống rạ sau vườn.
     Chẳng may, đêm ấy, Phạm Lang nổi lửa đốt đống rạ để lấy tro bón ruộng. Thấy lửa cháy, biết Cao ở trong đó, Nhi lao mình vào tính cứu Cao ra. Thấy Nhi nhảy vào đống lửa, Phạm Lang thương vợ cũng nhảy theo. Cả ba đều chết trong đám lửa.
     Thượng đế thương tình thấy 3 người sống có nghĩa có tình nên phong cho làm vua bếp hay còn gọi là Định phúc Táo Quân và giao cho người chồng mới là Thổ Công trông coi việc trong bếp, người chồng cũ là Thổ Địa trông coi việc trong nhà, còn người vợ là Thổ Kỳ trông coi việc chợ búa. Không những định đoạt may, rủi, phúc họa của gia chủ, các vị Táo còn ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ vào thổ cư, giữ bình yên cho mọi người trong nhà.

Tranh Táo Quân, tranh dân gian Đông Hồ
Tranh dân gian Đông Hồ
Sự tích 3
     Hai vợ chồng nghèo, chồng đi buôn, vợ làm ruộng nên chồng thường xa nhà thỉnh thoảng mới về, đôi khi đi suốt năm mới về. Rồi một chuyến đi biền biệt không tin tức, không tiền bạc gởi về. Người vợ chờ cả 10 năm vẫn biệt tích. Sau đó người vợ lấy một người chồng khác làm nghề săn bắn; người này nuôi một đầy tớ tên là Lốc.
     Một hôm chồng mới và Lốc đi săn vắng nhà, đột nhiên người chồng cũ trở về và cho biết sở dĩ đi biền biệt là vì gặp giặc bắt lưu lạc trong rừng nay mới trốn thoát về được. Người vợ chỉ còn biết ôm chồng cũ khóc than, và dọn cơm rượu mời ăn. Khi chồng mới sắp về người vợ đưa chồng cũ ra đống rơm ẩn tạm. Chủ và tớ đi săn về được một con cầy. Chồng giục vợ đi sắm mọi thứ để làm một bữa.
     Trong khi người vợ đi vắng, người chồng và đầy tớ đốt đống rơm để thui cầy. Lửa vô tình đốt cháy thiêu người chồng cũ đang ngủ say. Giữa lúc đó, người vợ về thấy thế, rất đau đớn, tự cảm thấy như thể vì mình mà chồng cũ chết, nên nhảy vào đống lửa chết theo.
     Người chồng mới thương tiếc vợ, cũng đâm đầu vào lửa. Người đầy tớ vừa thương chủ vừa hối hận vì chính tay mình châm lửa thiêu chết người cũng nhảy nốt vào lửa chết theo.
     Ba vợ chồng sau đó được Diêm Vương cho hóa làm ba ông đầu rau. Còn người đầy tớ được hóa làm đồ dùng chặn đống nhấm, quen gọi là "thằng Lốc". Trong tranh vẽ Táo quân, thường thấy vẽ người đầy tớ có nghĩa đứng cạnh ba người.
     Cả 3 tích truyện tuy có nhân vật hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là những nhân vật đều sống có nghĩa có tình. Người Việt xưa không bao giờ có thể chấp nhận việc đa phu, một bà hai ông. Người ta thường chỉ trích “Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp hai ông một bà”. Như vậy, điều mà tích truyện nhắc tới, đó không phải là cái lý, nhưng là cái tình nghĩa phu thê, sống chết cùng nhau.

........
Phong tục thờ cúng Táo Công
     Thường thì bắt đầu từ chiều 22 hoặc sáng 23 tháng Chạp, các gia đình làm lễ để ông Táo lên chầu trời (Tiễn Táo) để tấu trình mọi việc của gia chủ với Ngọc hoàng thượng đế, đến trưa 30 Tết thì ông Táo lại có mặt ở hạ giới để tiếp tục công việc.
    
http://eicvn.eu/images/stories/tin/1211/tao3.jpg      Lễ vật cúng Ông Táo được chuẩn bị vô cùng chu đáo và trang trọng thể hiện sự thành kính của các gia chủ. Lễ vật gồm có: mũ Táo Quân thường có 3 cỗ (chiếc) gồm một của nữ thần không có cánh chuồn, 2 của nam thần có cánh chuồn, kèm theo áo quan, hia (hài), tiền vàng, tiền bạc cùng bệ bằng giấy. Nhưng để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) kèm theo một chiếc áo và một đôi hia. Theo sách "Nam Định địa dư chí" của tiến sĩ đốc học Khiếu Năng Tĩnh thế kỷ XIX, thì mũ, áo, hia của Táo Quân màu vàng. Nhưng có sách lại nói màu sắc tùy thuộc từng năm, ứng với các hành Kim (vàng), Mộc (trắng), Thủy (xanh), Hỏa (đỏ), Thổ (đen).
     Ngoài những đồ “vàng mã” sẽ được hóa vàng sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ để lập bài vị mới thì lễ vật còn có hoa quả (chuối, bưởi, quất vàng, hoa cúc…), trầu cau, hương đèn, cỗ mặn (xôi, thịt, rượu), và cá chép sống ở miền Bắc, ngựa với đầy đủ dây cương, yên ở miền Trung. Theo quan niệm của người miền Bắc thì ông Công, ông Táo khi đi lên thiên đình phải cưỡi cá chép vì chỉ có cá chép mới có thể vượt vũ môn hóa rồng bay lên trời. Cá chép được mua thường là chép nhỏ màu đen tuyền hoặc vàng đỏ khỏe mạnh, sau đó được bỏ vào trong chậu xinh xinh để lên trên bàn thờ cúng cùng các lễ vật khác. Đến chiều thì phóng sinh cá ra ao hồ, sông suối… 
     Cùng với các lễ vật chay thì mâm cỗ mặn để cúng tiễn ông Táo đi nhanh về sớm cũng được các gia chủ chuẩn bị rất chu đáo. Dù khó khăn hay khá giả, các gia đình vẫn cố gắng sắm một mâm cỗ với đầy đủ các món ăn truyền thống để tỏ lòng biết ơn với các vị Định phúc Táo Quân. Mâm cỗ cúng ông Táo truyền thống gồm có: Xôi gấc, thịt nấu đông, nem rán, giò nạc, cá chép rán, thịt lợn luộc, lòng gà nấu măng, món xào, dưa cải, rượu trắng, chè sen ở miền Bắc còn trong Nam có thêm xôi chè, trám hoặc thịt kho tàu, giò xào, dưa kiệu…
    Đặc biệt, theo tục xưa còn truyền thì mâm cỗ cúng không thể thiếu một con gà luộc ngậm hoa hồng, nhưng gà cúng ông Táo phải là gà cồ mới gáy bởi các gia chủ  muốn cầu xin Táo Quân lên tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho con trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!
Ngày nay, phong tục cúng ông Táo, ông Công không được tổ chức chu đáo và nhiều nghi lễ như xưa. Chỉ một chậu cá, một mâm cỗ đơn giản với  gà luộc, xôi gấc, chè kho mua sẵn và một vài món mặn là xong mâm cỗ để nhớ ơn đến tổ tiên và các vị thần đã bảo vệ cho gia đình mình một năm an bình, thịnh vượng. 
   
Liên hệ đến gia đình 
     Quan niệm táo quân là vị thần thứ nhất, quan trọng hàng đầu trong gia đình, nhiều địa phương có tục lệ, người con gái khi mới về nhà chồng, phải làm lễ ở bếp, hay ở bàn thờ Thổ Công, để xin phù trợ về sau trong công việc bếp núc, tề gia, nội trợ, quán xuyến gia đình. Theo quan niệm của người phương Tây thì  “bàn tay đưa nôi là bàn tay cai trị thế giới”, còn theo người Việt nam thì người phụ nữ chính là tay hòm chìa khóa, là người nội tướng trong gia đình.
     Khi nhắc đến tích ông Công, ông Táo người ta nhớ tới bếp lửa và ý nghĩa có bếp lửa trong gia đình. Bếp lửa ngoài việc nấu chín thực phẩm phục vụ con người, còn là nơi cả gia đình đoàn viên quây quần bên nhau. Một bếp lửa hồng ấm áp, mang đến những niềm hi vọng về một ngày mai tươi sáng. Không có gì ngạc nhiên nếu bạn nhìn thấy trong các lễ hội quan trọng của dân tộc, đều xuất hiện nghi thức thắp lửa thiêng. Ngọn lửa bùng cháy xua đuổi thú dữ, mang lại sự đầm ấm, tươi vui,… Ở Việt Nam, gia đình nào cũng có bếp lửa. Nếu một ngày, bếp lửa nguội lạnh, thì cảm giác thiếu hơi ấm tình thương luôn bủa vây lấy con người.
 (Sưu tầm)

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Chuyện của Dế em (2)

      Trưa nay cố mấy việc nên mẹ đi đón Dế em ở lớp tiếng Anh khá muộn. Thương thương vì đến nơi chỉ còn lẻ tẻ vài bạn ở phòng đợi. Vừa đến nhà, con đã vội đi lục tìm bút chì và giấy vẽ (có thứ này lúc đợi mẹ thì chắc đã  đỡ sốt ruột hơn), thế mà không quên khoe:
-  Bài thi hôm nay con làm tốt lắm mẹ ạ! Dễ lắm!
Chả là hôm nay cu cậu thi kết thúc khóa. Mẹ đã quá quen  thưởng thức món "dễ lắm" của Dế em, nên vừa cất chìa khóa vừa bảo: 
-  Mọi khi con cũng toàn nói thế, mà bài vẫn sai đấy thôi!
Nhân tiện, mẹ hỏi chuyện học ở lớp tiếng Anh chủ nhật, về các bạn ở lớp, về thầy giáo bản ngữ. Toàn những câu hỏi lo âu, đại khái là: Các bạn và con ngồi trong lớp như thế nào để thi? Con có chú ý làm bài  không? Thầy có phải nhắc nhở gì con không?v.v.... Quả là lúc nào mẹ cũng lo Dế em học non kém so với bạn bè, lại quá nghịch ngợm, làm các thầy cô giáo thường không hài lòng. Dế em kể: Các bạn ngồi thành vòng, như thế này này, con thì làm bài cạnh chỗ thầy... Mẹ mới thoáng để tâm về cái chi tiết "ngồi cạnh thầy", chưa kịp... thở dài, thì con đã tuyên bố:
-  Con thấy như là thầy quý con nhất lớp đấy!
-  Sao con nghĩ thế?
-  Con không biết, con cảm thấy thế thôi!- Dế em đã bắt đầu hí húi với tờ giấy A4 chi chít  nét  vẽ bằng bút chì, đáp qua quýt.
-  Con có hay nói chuyện với thầy không?- Mẹ lại cố gợi chuyện. Chả là mẹ cũng thấy tò mò.
-  Có ạ! Với lại khi thầy đặt câu hỏi, con hay trả lời thầy.
Mẹ mừng rỡ:
-  Tốt lắm! con đúng đấy! Học tiếng là phải chịu khó nói nhiều với thầy...
 Anh Dế dời mắt khỏi cái tivi, bĩu môi:
- Học như em mà đòi thầy quý! Có mà mơ!
 Mẹ bênh Dế em: 
- Sao con lại nói em thế, thầy quý em thật thì sao? Có thể lắm!
- Nhưng vì sao cơ ạ? Có gì hay ho đâu! Đến tự nó cũng chẳng biết!
Mẹ cả quyết:
- Vì em lễ phép, vì em thật thà chẳng hạn!
Dế em hồ hởi quay ngay lại như bắt được vàng:
-  Có thể đúng vì như thế đấy mẹ ạ!
    Và Dế em kể cho mẹ hai chuyện. Câu chuyện trưa hôm nay của Dế em, mẹ giữ nguyên văn- tức là trong lời kể lẫn lộn cả tiếng Anh với tiếng Việt:
"Con hay nói chuyện với thầy thật đấy! Như có hôm thầy đến, nói với cả lớp con, con không nhắc lại được đâu nhưng con nghe thì con hiểu ý thầy nói là: Hôm nay thầy ốm, nhưng thầy vẫn đi làm. Con thấy mặt thầy bị xước, xước ở mũi ấy! nên con mới hỏi thầy: "What's wrong with your face?". Thầy trả lời nhiều, con không nghe được hết, có một bạn dịch được là thầy bị ngã. Con lại hỏi: "Why do you go to school today?",  tức là sao thầy vẫn đi làm? Thầy đáp: "Because I love you.""
"... Hôm mà gần đến ngày Noel, thầy cho lớp ngồi vòng quanh chơi trò chơi, trả lời các câu hỏi của thầy và phát kẹo cho những bạn đến lượt chơi.  Khi hết giờ, vòng chơi chưa đến con và mấy bạn nữa. Thầy liền chia  nốt cho những người chưa đến lượt. Lúc ấy lớp đã rất lộn xộn rồi nên vừa phát, thầy vừa phải hỏi lại xem còn những ai chưa có kẹo để thầy đưa... Có mấy bạn đã có rồi nhé- con với nhiều bạn khác cũng biết- nhưng khi thầy hỏi lại nói là chưa có để lấy thêm. Đến khi thầy hỏi con: "Have you got any candies?".  Con được phát một cái rồi nên con trả lời: "Yes, I have!" Thế là thầy có vẻ vui. Thầy lại nói rất dài, rồi thầy đưa thêm con mấy cái kẹo nữa. Thầy bảo "Because you..." như là thầy khen gì ấy mẹ ạ!"
    Đến đây, mẹ ôm lấy Dế em: "Con làm thế là đúng rồi! Mẹ yêu Dế em quá! mẹ tự hào lắm!...". Mẹ chẳng biết mẹ có quá lời không, nhưng kệ! Dế em đang cười rạng rỡ kia kìa!

***

     Mẹ ân hận vì dạo này bận, ít nói chuyện với Dế em. Bây giờ phải để ý chuyện trò nhiều hơn với con, và khen động viên con nhiều hơn cho mỗi việc tốt của con dù là rất nhỏ. Điều này về lý thuyết mẹ biết, nhưng thực hành hình như còn kém. Dế em từ trước nay vẫn thế: rất hiếu động, và vô tư không quan tâm rèn luyện học hành (vẫn y như lời phê của cô giáo từ hồi cuối lớp 2 là... "không cầu tiến"- sao mà mẹ nhớ rõ cụm từ này thế không biết!); luôn luôn học ở cái thế bấp bênh, thất thường, làm mẹ nhiều lần nhìn vở làm bài trên lớp chính khóa của con mà buồn thiu... Học sinh lớp 5 rồi mà một tháng ôn tập học kì là một tháng mẹ kèm con, không thả cho tự ôn bài được- Nản kinh! Nhưng câu chuyện kể nhỏ xíu hôm nay của Dế em đã động viên mẹ. Mẹ nghĩ trong việc nuôi dạy con, mẹ chưa mấy thành công, nhưng cũng có những niềm vui nho nhỏ đấy! Chuyện to tát hơn thì cứ từ từ đã... Lại cố gắng giúp con và chờ đợi con lớn lên. Mẹ nghĩ thế có phải không?

Hoa giấy
---------------------------------

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Đóa hoa vô thường





http://images.yume.vn/buzz/20110322/Trinh%20Cong%20Son.jpgTìm em tôi tìm mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi,
Nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối,
Một bờ môi thơm, một hồn giấy mới.
Tìm em tôi tìm, nhủ lòng tôi ơi!
Tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi,
Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay,
Tìm lại trên sông những dấu hài.

Tìm em xa gần, đất trời rộn ràng,
Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh,
Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em !
Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh, sấm bay rền vang,
Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn.
Tôi mời em về đêm gội mưa trong,
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm .
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan,
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh.

Từ nay tôi đã có người có em đi đứng bên đời líu lo,
Từ nay tôi đã có tìnhm, có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa,
Từ em tôi đã đắp bồi, có tôi trong dáng em ngồi trước sân.

Mùa đông cho em nỗi buồn, chiều em ra đứng hát kinh đầu sông.
Tàn đông con nước kéo lên, chút tình mới chớm đã viên thành.

Từ nay anh đã có nàng, biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca .
Mùa xuân trên những mái nhà, có con chim hót tên là ái ân.

Sen hồng một nụ, em ngồi một thuở ,
Một thuở yêu nhau có vui cùng sầu,
Từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào,
Sen hồng một độ, em hồng một thuở xuân xanh,
Sen buồn một mình. Em buồn đền trọn mối tình.

Một chiều em đứng cuối sông gió mùa thu rất ân cần.
Chở lời kinh đến núi non, những lời tình em trối trăn.
Một thời yêu dấu đã qua gót hồng em muốn quay về.
Dù trần gian có xót xa cũng đành về với quê nhà.

Từ đó trong vườn khuya,
Ôi áo xưa em là một chút mây phù du.
Đã thoáng qua đời ta,
Từ đó trong hồn ta ôi tiếng chuông não nề,
Ngựa hí vang rừng xa vọng suốt đất trời kia.
Từ đó ta ngồi mê để thấy trên đường xa,
Một chuyến xe tựa như vừa đến nơi chia lìa.

Từ đó ta nằm đau ôi núi cũng như đèo,
Một chút vô thường theo từng phút cao giờ sâu.
Từ đó hoa là em một sớm kia rất hồng,
Nở hết trong hoàng hôn đợi gió vô thường lên.
Từ đó em là sương rụng mát trong bình minh,
Từ đó ta là đêm nở đóa hoa vô thường.

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2014

Cái giẻ lau

                                                                                   Chuyện vặt ngày thường
                                                                                                                              Trần Mỹ Giống
     (...)

ông và cháu        Một lần, ông sai thằng cháu nhỏ lau cái bàn viết. Nó lau đi lau lại cái bàn mà mãi không xong. Nó than với ông:
- Ông ơi, cái bàn này của ông bẩn quá nên cháu lau mãi mà vẫn không sạch!
Ông bảo cháu:  

- Cháu lau mãi mà bàn vẫn bẩn, không phải tại cái bàn đâu, mà chính là tại cái giẻ lau của cháu bẩn quá đấy!
     Cháu hiểu ra, nó vội thay cái giẻ lau. Cái bàn cuối cùng cũng sạch sẽ.

Cận cảnh pho tượng kì lạ nhất Việt Nam



(GDVN) - Có lẽ nhiều người ở Hà Nội mà không hề hay biết rằng giữa thủ đô có một bức "dị tượng" không giống so với bất kì bức tượng Phật nào khác...
       Chùa Hòe Nhai (Hà Nội) không quá xa lạ với những cư dân của thủ đô, đất tổ của phái Tào Động Việt Nam, nhưng có lẽ không nhiều người đã từng nhìn thấy bức tượng một ông vua đời Hậu Lê hàng ngày hàng giờ phủ phục, và trên lưng ông, là Phật Thích Ca.


 
     
      Pho tượng này là kết quả từ một cuộc pháp nạn của các tăng ni Phật giáo Việt Nam năm 1678.  Khoảng thời gian hậu Trần đó, khi Phật giáo không còn được đứng ở vị trí quốc giáo nữa, thay vào đó là Nho giáo thịnh hành hơn bao giờ hết.
      Đỉnh điểm là đến thời vua Lê Hy Tông đã có một sắc lệnh đuổi hết các sư sãi lên rừng, ai không đi sẽ bị trừng trị nặng nề.  Đạo Phật khi đó đã phải trải qua một thời kỳ nhọc nhằn. Một trong số những hòa thượng đắc đạo pháp danh Tông Diễn, được biết đến với tên Tổ Cua, Tổ Cáy cũng bị buộc phải đi qua con đường hoặc sinh hoặc tử này.
     Không cam tâm thấy tăng chúng phải trải qua pháp nạn quá nặng nề đó, hòa thượng Tông Diễn đã tìm cách len lỏi trở lại kinh thành Thăng Long, tìm cách giáo hóa vị vua Lê Hy Tông đầy quyền uy và kì thị, vị vua mà sau này, nguyện phủ phục dưới Phật để sám hối những lỗi lầm đã phạm.
     Để cảm hóa được vua Lê Hy Tông, hòa thượng Tông Diễn đã cho một tấm biểu đã viết sẵn vào một chiếc hộp chuyển vào cho vua Hy Tông. Trong biểu chỉ có những điều đơn thuần dễ hiểu như: hãy nhìn vào đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội...
     Vua Hy Tông mở chiếc hộp và đọc chiếu mới bừng tỉnh, cho vời hòa thượng Tông Diễn vào trò chuyện. Sau khi nghe hòa thượng thuyết pháp, bèn rút lại sắc lệnh đã ban. 
     Vua Hy Tông từ đây hết sức sửa mình, tự nguyện đề nghị với hòa thượng Tông Diễn rằng nên làm một bức tượng mà trong đó, vua phủ phục dưới Phật, để thể hiện sự sám hối và sửa mình một cách cẩn trọng của ông.
     Đây là bức tượng độc đáo nhất của văn hóa Phật giáo Việt Nam, mang tính cách Việt và lịch sử Việt, không nơi nào trên thế giới có một mã văn hóa như thế. Pho tượng này nằm ở một tầng cao về trí tuệ, một sự sửa mình để sống tốt hơn, một người ở cấp độ cầm quyền cao nhất cũng phải xem lại chính mình.
(Theo GDVN) 


 


 


Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

Serenade - Khúc nhạc chiều của Schubert

HG: Nghe Serenade trong lúc làm việc. Mọi khi thì vẫn suy nghĩ được, sao tối nay chịu chết- cái đầu không nghe lời rồi?! Đành cho nó "đi" luôn- lang thang theo nhạc Schubert đã-  may ra "dĩ độc trị độc"...





Dưới cửa sổ này, ta sẽ hát nàng nghe...!
Serenade - Khúc nhạc chiều
     Trong âm nhạc, Serenade được hiểu theo nghĩa chung nhất là các sáng tác hoặc một hình thức biểu diễn. Thời xa xưa, Serenade là những sáng tác được biểu diễn trong chiều tà, thường là dưới những ô cửa sổ, dành riêng cho người tình, bạn bè, hoặc những người được vinh danh, tụng ca.
       Tục lệ này bắt đầu vào thời Trung Cổ hoặc Phục Hưng. Các bản nhạc được biểu diễn bởi một người vừa hát vừa đệm bằng một nhạc cụ phù hợp, không cần theo thể loại đặc biệt nào.
     Vào thời Barốc, Serenade là hình thức biểu diễn nhạc cantat ngoài trời, trong buổi chiều, với nhiều giọng hát hòa âm và hòa tấu đệm. Điểm khác biệt giữa cantat và serenade là bản nhạc chiều được biểu diễn trong không gian rộng, có thể sử dụng các nhạc cụ lớn như kèn trumpet, trống, tù và.

      Thể loại thịnh hành, quan trọng nhất của serenade trong lịch sử âm nhạc là sáng tác dành cho các dàn hòa tấu lớn, nhiều phần, trong thời kỳ Cổ Điển và Lãng mạn. Các bản Serenade này xuất xứ từ Ý, Đức, Áo và Bohemieng.
      Bản nhạc Serenade trong thế kỷ 18 gồm 4 phần, đôi khi là 10. Dàn nhạc cho một khúc serenade tối thiểu gồm nhạc cụ hơi, kết hợp với bass và violin: người chơi có thể đứng để biểu diễn ngoài trời.
      Trong thế kỷ 19, Serenade chuyển thành hình thức biểu diễn hòa tấu, ít được biểu diễn ngoài trời hơn. Các nhạc sĩ bắt đầu viết Serenade cho các dàn nhạc khác nhau. Dvořák, Tchaikovsky, Josef Suk viết serenade dành riêng cho nhạc cụ dây. Những nhạc sĩ khác như Richard Strauss, Max Reger, Edward Elgar và Jean Sibelius viết serenade theo dòng Lãng mạn.
      Những bản Serenade nổi tiếng nhất trong thế kỷ 20 có thể kể như Serenade cho Tenor, tù và và đàn dây của Benjamin Britten, Serenade cho piano của Stravinsky, Serenade Op. 24 cho baritone (nam trung) và 7 nhạc cụ của Arnold Schoenberg.
 

Dưới cửa sổ này, ta sẽ nói yêu nàng! 

 
Cảnh tỏ tình bằng serenade trong opera
“Người thợ cạo thành Seville”

     Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa, nếu muốn "chiếm" trái tim cô gái nào đó thì chàng trai đang “trồng cây si” thường mượn âm nhạc, tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình.
     Thử tượng tượng một chút nhé: bạn là một cô gái châu Âu sống trong thời Trung cổ hay Phục hưng, bỗng một buổi chiều tối, bạn nghe văng vẳng tiếng đàn hát cất lên từ phía dưới cửa sổ nhà mình… Chúc mừng nhé! Bạn đã lọt vào mắt xanh của một anh chàng. Thể loại âm nhạc chàng đang chơi để tỏ tình với bạn chính là một serenade.
     Những tác phẩm thuộc dạng này cũng xuất hiện ở những thời đại về sau, nhưng thường là trong tình huống có liên quan một cách đặc biệt đến thời trước, chẳng hạn như một aria tỏ tình trong một vở opera. Một ví dụ nổi tiếng là ở màn đầu opera “Người thợ cạo thành Seville của Rossini, nhân vật bá tước Almaviva đã tỏ tình với Rosina bằng một serenade.
(...)
     Thời nay có lẽ sẽ chẳng chàng nào "đủ sức" mang một cây đàn piano đến dưới cửa sổ nhà người mình yêu,  chơi "Serenade của Schubert" để tỏ tình vào chiều tối.
   Và dù “đàn hát hay giỏi” đến mấy, cũng khó giãi bày tấm lòng với "nửa kia" bằng serenade một cách đúng nghĩa nếu nhà nàng không có ban công hay cửa sổ đủ thấp.
 
Serenade của Schubert: Đậm đà hai mặt của tình yêu
       Một trong những bản serenade phổ biến, được biết đến nhiều nhất là bản Serenade của Franz Schubert, viết vào năm 1826. Nguyên bản của bài nhạc này được viết trên bè hai, với giọng nam hợp xướng, sau đó được sắp xếp lại dành riêng cho giọng nữ. 
    Theo Von Hellborn, người viết tiểu sử cho Schubert, bản nhạc này ra đời vào vào một Chủ nhật năm 1826. Khi ấy, Schubert cùng một vài người bạn từ Potzleinsdorf trở về thành phố. Đi qua Wahring, ông thấy bạn mình là Tieze đang ngồi bên chiếc bàn trong khu vườn của Zum Biersack. Trước mặt Tieze là một cuốn sách, và Schubert lật lướt qua nó.
      Đột nhiên, ông dừng lại, chỉ vào một bài thơ, nói như reo lên: "Một giai điệu tuyệt vời vừa vang lên trong đầu tôi, giá mà tôi có giấy chép nhạc bây giờ!". Herr Doppler liền vẽ một vài khuông nhạc trên mặt sau tờ hóa đơn, và trong sự huyên náo của quán ăn ngày Chủ nhật, giữa tiếng dao nĩa, giữa những người bồi bàn hối hả chạy qua lại, Schubert đã viết nên bản Serenade bất hủ của mình.

Nguyên bản bài thơ bằng tiếng Đức
[1] , dịch nghĩa:

Những bài hát của tôi nhẹ nhàng cầu khẩn
Xuyên qua đêm thâu;
Trong sự lặng yên dưới những lùm cây,
Người yêu, hãy đến bên tôi

Những ngọn cây mảnh dẻ lấp lánh khe khẽ thì thầm
trong ánh trăng;
Holde, đừng e ngại
những kẻ bội phản rình rập lắng nghe.

Người có nghe những cơn gió đêm?
Ồ, chúng đang khẩn cầu người,
Với giọng than vãn ngọt ngào
Chúng đang khẩn cầu tôi.

Chúng hiểu được nỗi khát khao trong lồng ngực,
Chúng biết nỗi đau của tình yêu,
Với những nốt nhạc bạc, chúng làm rung động
từng trái tim yếu đuối.

Hãy để lồng ngực rung lên
Yêu thương, lắng nghe tôi!
Run rẩy, tôi chờ đợi
Hãy đến, cho tôi hạnh phúc!

 Tổng hợp từ bài của Lam ThuyênNgọc Anh 

--------------------------------------------------

  • [1] Xem nguyên bản tiếng Đức ở đây
  • Serenade Schubert- violinist Isaac Stern: