Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Ông vua có đôi tai lừa

HG: Nhiều lúc mình muốn coi blog này như một cái hố, mà xem chừng... :(
Anh thợ cắt tóc này này còn sướng chán!!!


[​IMG]
Thần mục đồng Pan
     Ngày xửa ngày xưa, thời vua Midrat trị vì, đất nước Hy lạp hùng mạnh và giàu có. Midrat là một vị vua anh minh, đức độ nên ông được thần dân vô cùng yêu mến.
     Một hôm, sau khi bãi triều, nhà vua đi dạo trên đồi bỗng nghe tiếng sáo vui nhộn vang lên. Tò mò, ông vội bước về phía phát ra tiếng sáo lạ.
    Thì ra đó là tiếng sáo của thần Pan, vị thần bảo vệ các mục đồng. Thần Pan có nửa thân trên là người,trên đầu có sừng, nửa thân dưới giống dê. Thần Pan đang vui vẻ thổi sáo và nô đùa với một đàn cừu.
     Nhà vua nhẹ nhàng tiến lại gần và say mê lắng nghe tiếng sáo véo von. Không chỉ có vua Midrat mà các tiên nữ và thú rừng cũng rất thích tiếng sáo của thần Pan. Họ vỗ tay reo hò ca ngợi tiếng sáo trong trẻo rộn ràng.

     Được khen, thần Pan vui sướng quá đã buột miệng mà nói rằng tiếng sáo của thần chắc chắn còn hay hơn tiếng đàn Lia của thần âm nhạc Apolon. Đúng lúc đó, có một vầng hào quang chợt bừng lên, thần âm nhạc Apolon xuất hiện.
     Thần âm nhạc Apolon đề nghị thần Pan so tài với mình để xem tiếng sáo hay tiếng đàn Lia nghe hay hơn. Thần Pan rất tự tin nhận lời. Ba vị thần núi được mời đến để làm trọng tài.
     Tiếng đàn Lia của thần âm nhạc Apolon lúc trầm lúc bổng, khơi gợi những tình cảm cao đẹp khiến cho người nghe cảm thấy lòng mình thanh thản. Còn tiếng sáo của thần Pan lại rất vui nhộn. Tiếng sáo càng lúc càng rộn ràng hơn khi chim chóc cũng cất tiếng hót hoà theo.

http://putinviet.files.wordpress.com/2012/10/1314.jpg?w=584
Thần âm nhạc Apolon
     Tiếng đàn Lia của thần âm nhạc Apolon cất lên làm cho thời gian như ngừng trôi, không gian lắng đọng lại. Ba vị thần núi, nhà vua Midat và các loài thú rừng đều lặng yên thả hồn theo tiếng nhạc. Dường như mọi lo âu, buồn phiền đều tan biến hết.
     Ngược lại tiếng sáo của thần Pan lại làm cho cảnh vật như bừng lên đầy sức sống. Tất cả như muốn nhảy múa hoà cùng giai điệu vui tươi. Gương mặt ai cũng tràn ngập sự lạc quan yêu đời.
     Khi cuộc so tài vừa kết thúc, cả nhà vua và ba vị thần núi đều lặng người xúc động. Thú rừng thì hân hoan vỗ tay reo hò. Bản nhạc nào cũng thật tuyệt vời. Thật là khó để tìm ra người chiến thắng.
     Ba vị thần núi sau một hồi bàn bạc, tuyên bố tiếng đàn Lia của thần âm nhạc Apolon hay hơn tiếng sáo của thần Pan. Tiếng đàn của thần âm nhạc làm cho cuộc sống của con người thêm cao đẹp, biết yêu thương nhau hơn. Tiếng đàn còn làm cho con người bớt đau buồn và không chỉ sống với niềm hy vọng mà còn sống với niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp. Sự đánh giá của các thần núi rất công bằng và hợp lý.
 
     Nhưng vua Midrat lại nghĩ khác, ông cho rằng tiếng sáo của thần Pan hay hơn tiếng đàn Lia của thần Apolon. Vì tiếng sáo rộn ràng vui nhộn của thần Pan làm cho con người quên ngay hết đau buồn, đem lại cho họ niềm hy vọng vào ngày mai.
      Nhưng theo thần Apolon thì âm nhạc không chỉ để mua vui mà còn làm cho cuộc sống của con người thêm cao đẹp. Vì thế thần cho rằng vua Midat chẳng hiểu gì về âm nhạc nên đã biến đôi tai của nhà vua thành đôi tai lừa.

     Từ khi bị biến thành tai lừa, vua Midat đi đâu cũng phải đội một chiếc mũ đặc biệt. Thần dân trong kinh thành đều lấy làm lạ vì vua thiếu gì mũ mà lúc nào cũng phải đội mãi một kiểu mũ kì quặc ấy.
     Chẳng bao lâu sau, trong kinh thành xảy ra một sự kiện lạ khiến cho mọi người vô cùng lo lắng và hoảng sợ. Càng ngày càng có nhiều thợ cắt tóc ở kinh thành mất tích một cách bí ẩn, sau khi được gọi vào cung cắt tóc cho nhà vua. Người thân của họ dò hỏi mọi chỗ nhưng chẳng một ai cho họ biết tin tức gì. Thế là tin dữ truyền đi khắp nơi.
     Có một anh thợ trẻ hiền lành, dũng cảm quyết định tìm hiểu chuyện lạ này. Anh hứa với tất cả những gia đình có người thân mất tích là sẽ cho họ biết sự thật. Anh thợ trẻ chuẩn bị đồ nghề thật chu đáo rồi tới hoàng cung nói với lính gác cổng là anh được mời đến để cắt tóc cho nhà vua.
     Anh thợ trẻ được đưa tới gặp vua Midrat. Anh từ từ nhấc chiếc mũ lạ lùng của ngài ra và kinh hoàng khi nhìn thấy đôi tai lừa. Vốn là người khôn ngoan, anh chẳng nói một lời nào và lẳng lặng bắt đầu công việc của mình.
     Nhà vua thấy anh thợ trẻ không nói gì bèn hỏi anh thấy tai của nhà vua thế nào. Anh thợ thông minh trả lời rằng tai của đức vua không khác gì tai của mọi người. Nhà vua nghe thấy thế hài lòng lắm. Còn anh thợ nhìn đôi tai lừa thì phải thu hết can đảm để giữ bình tĩnh tiếp tục công việc.
     Sau khi làm việc xong, anh thợ trẻ xin phép nhà vua được ra về. Lúc bấy giờ vua mới nói:
- Ngươi tuy trẻ nhưng khá thông minh đấy! Ta sẽ cho người về, nhưng trước khi rời đây, ngươi phải nhớ thật kỹ một điều, nếu ngươi lộ chuyện đôi tai của ta cho bất cứ ai thì ngươi sẽ mất mạng đấy! Ta sẽ cho người theo dõi ngươi!
     Anh thợ trẻ run sợ tâu:
- Tâu bệ hạ, thảo dân nhớ rất kỹ lời bệ hạ vừa dạy. Thảo dân hứa sẽ không nói với bất cứ ai về chuyện này!
     Anh thợ trẻ vội vã đi thẳng về nhà mà không hay biết rằng nhà vua đã phái ngay một viên quan cận thần bí mật theo dõi anh.
     Thấy anh thợ cắt tóc trở về, các gia đình có người thân bị mất tích mừng lắm. Họ kéo đến hỏi xem anh có biết tin tức gì về người thân của họ không. Anh thợ định trả lời, nhưng khi nhìn qua cửa sổ thấy có người dò la thì sợ quá, một mực đáp rằng không biết gì hết.
     Mọi người thấy thế thì rất giận. Họ mắng anh là người thất hứa. Họ còn cho rằng anh đã nhận vàng của nhà vua nên mới im lặng như thế. Bị mắng oan, anh thợ trẻ buồn lắm.
     Ngày nào những người phụ nữ có chồng bị mất tích cũng tới nhà anh, van xin anh nói cho họ biết sự thật.Nhưng anh thợ trẻ thấy mình bị theo dõi nên đành đau khổ lắc đầu im lặng.
     Vốn là người hiền lành và trung thực, anh thợ rất ấm ức muốn nói rõ sự thật nhưng anh lại sợ bị tống giam vào ngục. Một hôm anh nghĩ ra cách trèo lên cây để đánh lừa viên cận thần của nhà vua.
Telling the secret
     Thấy người kia bị lạc hướng, anh thợ liền lẻn ra bãi sông. Anh đào một cái hố sâu rồi cúi sát miệng hố và lớn tiếng kêu to:
- Tai của nhà vua là tai lừa! Tai của nhà vua là tai lừa!
     Thốt ra được những lời phải giấu mãi trong lòng, anh thợ trẻ thấy rất dễ chịu. Anh lấp cái hố và vui vẻ trở về nhà.
     Chẳng bao lâu sau, có một cây lạ mọc ngay sát mép nước gần chỗ anh thợ trẻ đã chôn chặt tiếng kêu của mình. Người dân trong làng hết sức ngạc nhiên khi thấy những cây ấy sinh sôi nảy nở rất nhanh thành những bụi cây lớn.
     Mỗi khi có gió, bụi cây lao xao phát ra những tiếng văng vẳng:
- Tai của nhà vua là tai lừa! Tai của nhà vua là tai lừa!
     Từ khi có bụi cây lạ, những người ra sông láy nước hoặc đi câu cá đều nghe thấy tiếng lao xao đó. Và thế là câu chuyện lạ lan truyền trong dân chúng.
     Dân chúng kéo nhau ra bờ sông xem thực hư thế nào. Họ chăm chú lắng nghe và chẳng ai dám tin vào tai mình nữa. Mỗi lần gió thì tiếng văng vẳng lại vang lên. Không ai có thể giải thích được điều lạ lùng này.
     Tiếng đồn nhà vua có đôi tai lừa nhanh chóng lan khắp kinh thành. Nhà vua sai lính bắt anh thợ trẻ đến hỏi tội. Anh một mực kêu oan rồi thành thực kể cho vua nghe về nỗi khổ tâm đã giày vò anh và anh đã làm thế nào để trút được nỗi khổ đó đi.
     Vua Midat liền cho quân lính ra bãi sông thì thấy quả đúng như lời anh thợ nói. Mỗi khi có cơn gió thổi qua bụi cây thì lại nghe thấy tiếng lao xao
- Tai của nhà vua là tai lừa! Tai của nhà vua là tai lừa!
     Hoảng quá, quân lính vội về tâu lại với nhà vua.
     Nghe xong, vua Midat bèn giật phăng chiếc mũ đang đội trên đầu xuống và nói:
-Từ nay ta sẽ không che giấu sự thật nữa! Có như vậy ta mới thấy thoải mái nhẹ nhõm như anh thợ cắt tóc này.
     Sau đó nhà vua ra lệnh cho quân lính thả ngay những người thợ cắt tóc đang bị giam giữ trong ngục kín trở về đoàn tụ với gia đình.
     Người dân trong kinh thành hân hoan kéo tới trước cung vua. Vua Midat không đội mũ để lộ đôi tai lừa bước ra chào đón họ. Ai ai cũng cảm thấy tự hào khi được là thần dân của một ông vua biết quý trọng sự thật.
(Thần thoại Hy Lạp)

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Mùa hoa bưởi



HG:  Hôm nay đi qua một góc phố ngan ngát... Thứ hương sao mà thanh khiết, sao mà dịu dàng thân thuộc đến nao cả người. Thế là sực nhớ ra bài thơ của Nghiêm Thị Hằng. Hình như không nhiều người biết đến bài thơ này như với "Hương thầm" của Phan Thị Thanh Nhàn thì phải? Nhưng chả hiểu sao mình còn thích bài này hơn cả bài "Hương thầm" cơ đấy!




                           
                                                Mùa hoa bưởi
                                                                                                            Nghiêm thị Hằng
                                                    Chẳng phải vô tình em nhớ tháng ba
                                                    Nhớ về anh nhớ về hoa bưởi
                                                    Cánh hoa rơi lòng em bối rối
                                                    Chút hương thầm làng bãi lan xa...

                                                    Chẳng phải vô tình em nhớ tháng ba
                                                    Ngõ nhà anh đầy hoa xoan tím
                                                    Nhớ bến sông thuyền ai ghé bến
                                                    Hương bưởi quê mình níu khách sang sông

                                                    Nhớ tuổi thơ em nhặt bông bưởi trắng
                                                    Tháng ba này mẹ giã bánh trôi
                                                    Anh lớn lên đi vào quân ngũ
                                                    Chúng mình mỗi đứa mỗi nơi...

                                                    Em về làng giữa mùa hoa bưởi
                                                    Hương hoa thơm ướp nước gội đầu
                                                    Mẹ bảo anh mùa này nơi biên giới
                                                    Hai đứa mày có nhận tin nhau?

                                                    Chẳng thể nào dấu mẹ được đâu
                                                    Chúng mình yêu nhau từ mùa hoa bưởi.
                                                    Em đi học xa quê, xa mẹ
                                                    Anh về phép thăm nhà buổi ấy tiễn em...

                                                    Chúng mình đi dọc lối ngõ quen
                                                    Vườn tím hoa xoan, trắng ngần hoa bưởi.
                                                    Chiều chia tay có gì bối rối
                                                    Trăng mọc bao giờ hai đứa không hay...

                                                    Một mùa hoa chúng mình chia tay
                                                    Một mùa hoa mong ngày gặp lại.
                                                    Ôi mùa hoa lòng em mong đợi
                                                    Mùa hoa quê mình, hoa bưởi tháng ba…


-----------------------------------------------------------------------

 


sam2451-894935-1368235356_500x0.jpg







 Trên tán bưởi hoa đã nở thành từng khoảng trắng muốt.

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Nghe lại "Lời tạm biệt trước lúc lên đường "

HG: Hồi đó, mình còn rất bé, nhưng in sâu đậm trong tâm trí bao nhiêu là ấn tượng: Vẻ lo lắng xôn xao kéo dài ngày này sang ngày khác của bà nội, ba mẹ, các chị, những người hàng xóm; Chiếc hầm trú ẩn hình chữ A nền đất nện, nửa nổi nửa chìm được làm sẵn dưới bờ tre; Từ "sơ tán" ẩn hiện nhiều lần trên môi người lớn; Những đoàn xe dằng dặc trở bộ đội hoặc phủ kín bạt, cả xe kéo pháo... cứ ầm ì trong đêm tối, nối đuôi nhau chạy qua quốc lộ trước nhà; Cánh tay cuốn đầy băng trắng toát treo trước ngực của một anh bộ đội khi anh mới trở về, ghé qua thăm cô giáo cũ là mẹ... Mơ hồ đâu đó cả cảnh "biển người" xa lạ quân phục mũ mềm tràn lên một triền đồi biên giới trong bộ phim "Đất mẹ" với những tiếng "tả tả" hãi hùng... Sau này lớn lên thì hiểu những ấn tượng đó không chỉ đến vào thời điểm tháng hai năm bảy chín, mà nó đeo đẳng cuộc sống bao người Việt Nam từ đó cho đến những năm tám tư tám lăm và cả về sau... Lớn nữa thì đọc được nhiều hơn, biết thêm nhiều hơn... Không phải chỉ như từng biết và thuộc một bài hát hào sảng...

 
1/Ngày ra đi, chốn biên cương.
 Gió bấc tràn về, lòng anh lạnh buốt. 
Nòng súng thép dán câu thơ
 Ý thơ tuyệt hay là thơ Lý Thường Kiệt.

 Lòng người Việt Nam nào đâu thích gì đạn bom,
 ngọn nguồn đau thương trải qua đã nhiều rồi.
 Việt Nam ơi, Việt Nam ơi!
Trái tim Việt Nam tình yêu cuộc sống.
 Giặc dùng đạn bom thì ta giáng trả đạn bom.
 Quyết chiến thắng cho hôm nay,
 cho con cho cháu và cho khắp mọi miền.
 Đời tuyệt đẹp , gió bát ngát
Xanh xanh câu hát đời trong sáng tuyệt vời.

2/Ngày ra đi chốn biên cương.

 Có em tiễn đưa mà mắt lệ ướt. 
Về đi em, nếu yêu nhau 
hãy yêu rộng hơn cả non nước cuộc đời.

 Cầm bàn tay em nào anh nói gì nhiều đâu. 
Cuộc đời đang xuân mà thôi nhé tạm biệt.
 Dòng nước mắt dù thiêng liêng
 cũng không làm cho giặc kia lùi bước. 
Giặc dùng đạn bom thì ta giáng trả đạn bom. 
Quyết chiến thắng cho hôm nay,
 cho con cho cháu và cho khắp mọi miền. 
Mùa quả ngọt trái sẽ chín, anh đi em nhé vì chân lý ngời ngời.

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Biên Giới Tháng Hai

Huy Đức
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg6asuq6XyCCgfB_lTjUvUsBrKLWkAW-EIisZU9KysqIW15USlhZp1NWsPrXoJidlxUmczUoXmDsCH1v5yThr31ztHDCs_da2iVkswBsFgWxx4q9TdjdRlaZi6BqxLcK6w_NFswkDuGiVF3/s400/090223122220_war386x217.jpg    Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.

 
“Những đôi mắt”

      Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.
      Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn. 

“Cuộc Chiến 16 Ngày”
      Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.
      Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
      Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.
      Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
      Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối. 

Lặng Lẽ Hoa Đào
      Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
      Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.
      Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.


Ảnh cùa Lê Quang Nhật

(BlogOsin tháng 2.2009 )
-----------------------------------------------------
Những Đôi Mắt Mang Hình Viên Đạn 
                                                                                                     Trần Tiến 
       Đoàn quân vội đi đi về biên giới 
      cũng từ biên giới về những bầy trẻ nhỏ.  

      Đoàn quân lặng im nhìn đàn em bé 
                       từng đôi mắt đen xoe tròn 
                     từng đôi mắt mang hình viên đạn
                   từng đôi mắt sáng lên cháy lên như ngàn viên đạn 
                 từng đôi mắt quê hương trao cho đoàn quân, người chiến sĩ hãy giữ lấy. 
   
     Đoàn quân vội đi đi về biên giới 
    cũng từ biên giới về những người mẹ già

    Đoàn quân lặng im, ngược dòng người đi 
                  một đôi mắt bao lần tiễn biệt 
               một đôi mắt bao lần ước hẹn,
             một đôi mắt sáng lên, cháy lên muôn vàn ánh lửa 
           kìa đôi mắt quê hương trông theo đoàn quân, người chiến sĩ hãy giữ lấy 
            trút lên quân xâm lược dã man !

http://motthegioi.vn/uploaded/tuanhai/2014_02_12/hinh%201%20po%20hen_rzkg.jpg.ashx?width=600
Những người chiến sĩ biên phòng trong bức ảnh này đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc vào ngày 17.2.1979. Tên của họ (45 liệt sĩ đã hy sinh) được ghi trên bia tưởng niệm ở Pò Hèn.
Liệt sĩ, anh hùng Đỗ Sỹ Họa- Đồn phó đồn biên phòng Pò Hèn.
Đài tưởng niệm liệt sĩ Pò Hèn- Móng Cái- Quảng Ninh


https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHusNyiYwtZy3CNiBhtVbPS05lr9f_8D_pUH-1ChmBds3ET-B8NUNm38PNQNxvN6Wf0AfyIA-fS7ZH6fGj_LN78jn-n_LP6vFHPHSI5XX_hNmZZnMQvji4O9DpbncpW4Q2yVwL61OwsxY/s1600/IMG_0486+%2528FILEminimizer%2529.JPG
Nghĩa trang liệt sĩ Duyên Hải - Lào Cai
http://a.disquscdn.com/uploads/mediaembed/images/841/3009/original.jpg?w=600&h



Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên- Hà Giang
Nghĩa trang liệt sỹ Vị Xuyên


http://fc01.deviantart.net/fs32/f/2008/225/1/4/white_by_postwar_melancholy.jpg

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Mùa Xuân- Vivaldi





 

Mùa xuân, nghe Concerto “Mùa xuân” của Vivaldi

     Nhạc sỹ Antonio Vivaldi sinh ngày 4 tháng 3 năm 1678 tại Venice, Ý. Cha ông, Giovanni Batista dạy ông chơi violon từ bé và sau đó hai cha con cùng nhau biểu diễn violon ở Venice.
     Lúc 15 tuổi, Vivaldi bắt đầu được học để trở thành thầy tu. Đến khi 25 tuổi, ông được công nhận là thầy tu và được gọi là “Thầy tu tóc đỏ” (Il Prete Rosso) do mái tóc màu đỏ của ông. Vì lý do sức khỏe, chỉ 3 năm sau ông rời bỏ cuộc sống tu sĩ, nhưng vẫn đủ sức theo đuổi âm nhạc.
     Âm nhạc của Vivaldi tươi vui, gần như đùa nghịch, cho thấy niềm vui trong sáng tác của ông. Ngoài ra, Vivaldi còn có thể sáng tác âm nhạc dân dã, không chỉ giới hàn lâm mà tầng lớp bình dân cũng thưởng thức được. Chính những đặc điểm này đã khiến âm nhạc của Vivaldi được yêu thích rộng rãi.
     Tác phẩm Bốn mùa của ông, được sáng tác năm 1723, là một chùm bốn bản concerto cho đàn violon, mỗi bản tương ứng với một mùa trong năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là tác phẩm nổi tiếng nhất của Vivaldi và nằm trong số những tác phẩm được yêu thích nhất của thời kỳ Baroque.
(...)
     Vivaldi viết một bài thơ sonnet cho mỗi bản concerto trong tập Bốn mùa. Mỗi bài thơ lại có thể chia ra làm ba phần, tương ứng với nội dung từng chương trong bản concerto đó.

Concerto Mùa xuân
Chương 1: Allegro
Đoạn thơ dành cho Chương 1 bản Mùa Xuân như sau:
Mùa xuân đã đến với chúng ta.
Những chú chim đón mừng sự trở về của mùa xuân với bài ca ngày hội,
Và gió vuốt ve những dòng suối đang thầm thì.
Những cơn bão, những vị sứ giả của mùa xuân,
Gầm lên, che phủ thiên đường bằng tấm áo choàng xám xịt,
Để rồi lặng đi và những chú chim lại bắt đầu những khúc ca mê ly.
     Chương 1 không có khúc dạo đầu mà vào ngay chủ đề chính với toàn dàn nhạc. Âm nhạc rộn rã, tưng bừng, tràn đấy niềm vui và sức sống, tỏa ra một vẻ đẹp tươi mát, trong lành. Trong âm nhạc như hiện ra hoa lá, chim chóc, con người cùng hân hoan. Thi thoảng có pha tiếng mưa bão, sấm chớp, nhưng cuối cùng đều phải nhường chỗ cho tiếng chim hót líu lo do violon độc tấu mô phỏng và cảnh sắc huy hoàng ngày xuân. Chủ đề chính của Chương 1 chính là nhạc hiệu của chương trình Nhạc thính phòng giao hưởng trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
Itzhak Perlman biểu diễn Chương 1 cùng đàn nhạc Israel Philharmonic Orchestra:

 

Chương 2: Largo
Bên dòng suối đầy hoa, với những cành lá xum xuê đang xào xạc trên đầu,
Chàng chăn dê ngủ thiếp, chú chó trung thành bên chàng.
Phần đệm của dàn dây rất nhỏ, êm như nhung, như miêu tả tiếng suối róc rách, tiếng lá xào xạc, tạo nên một không khí mơ mộng, thanh bình đến kỳ lạ. Trên cơ sở đó, giai điệu chính do đàn violon cất lên đẹp mê hồn khó tả miêu tả giấc ngủ say của chàng chăn dê. Giai điệu lên xuống đều đặn, chầm chậm nhưng nhịp nhàng rất giống nhịp thở của một người đang ngon giấc. Một trạng thái tĩnh tại, an nhiên, ngây ngất. Xen vào đó là tiếng cello đứt đoạn mang chút ít đe dọa: trong lúc chàng chăn dê ngủ quên, những chú dê thừa cơ đi lang thang khắp mọi nơi.
Isaac Stern biểu diễn Chương 2 cùng dàn nhạc Israel Philharmonic Orchestra, Zubin Mehta chỉ huy:



Chương 3: Allegro Pastorale
Với âm nhạc ngày hội của những chiếc sáo đồng nội,
Những nàng tiên và những chàng chăn cừu nhẹ bước
Nhảy múa dưới mái vòm huy hoàng của mùa xuân.
Đúng như tên gọi của nó (Pastorale có nghĩa là đồng nội), âm nhạc Chương 3 mang tính chất đồng nội, quê mùa. Đó chính là điệu nhảy duyên dáng của các nàng tiên và các chàng chăn cừu giữa thiên nhiên đầy quyến rũ ngày xuân ở một miền quê nào đó.
Isaac Stern biểu diễn Chương 3 cùng dàn nhạc Israel Philharmonic Orchestra, Zubin Mehta chỉ huy:



(Sưu tầm từ ZhivagoVN's Blog
-------------------------------------------------

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

Không có cái gọi là "từ Hán Việt"

HG: Mình thích vì "bắt được" một bài viết khoa học, cho mình thêm kiến thức mới mẻ, thú vị. Còn tuyệt nhiên không có cái cảm xúc đắc chí... Chưa tự phân tích cảm giác kỹ hơn. Những lúc nào rỗi cũng cần mở đọc lại.
                                                                                                                    Hà Văn Thùy

       Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”*. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

     Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.
I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?
     Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.

     Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
     Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng!
     Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!
     Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!
     Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!
     Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)!
     Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà c chữ viết.
     Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:
     Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.
     Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt.
     Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.
     Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.
     Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt,  nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.
     Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.
      Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?
     Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.
     Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết.
II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc
     Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một.
     Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.
     Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?
     Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.
III. Kết luận
     Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!
     Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.
     Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!
     Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?
     Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.
     Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.

---------------------------------------------------------------------------------
Madrak, 1. 12. 2013
Tài liệu tham khảo: 
1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình     hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979
2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.
3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com
4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa  http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html
6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện
7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm

(Theo blog BA SÀM)

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

Đề Đô thành Nam trang



http://31.media.tumblr.com/tumblr_m2fhh2xNzd1qkengto1_1280.jpg
"Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong"

       Đề Đô Thành Nam Trang
       Khứ niên kim nhật thử môn trung
       Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
       Nhân diện bất tri hà xứ khứ
       Đào hoa y cựu tiếu đông phong
       Dịch nghĩa:
       Đề (thơ) ở trại phía Nam Đô Thành
       Ngày này năm ngoái tại cửa đây
       Hoa đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng
       Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nao
        (Chỉ thấy) hoa đào vẫn như cũ cười với gió đông.

(Chú thích: Đô Thành- tức Trường An (kinh đô nhà Đường) )
Bản dịch thơ của thi sĩ Tản Đà:

Thơ đề ở trang trại phía nam đô thành
Cửa đây năm ngoái cũng ngày này
Má phấn hoa đào ửng đỏ hây
Má phấn giờ đây đâu vắng tá
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây.     

      
      Đề Đô thành Nam trang (hay còn gọi Đề tích sở kiến xứ) là một trong rất ít những bài Đường thi nói về chủ đề tình yêu của tác giả Thôi Hộ. Tuy sáng tác ít nhưng Thôi Hộ được "lưu danh thiên cổ" cũng nhờ vào bài thất ngôn tứ tuyệt gắn với "thiên tình sử" nhiều giai thoại này. 
      Theo sách Đường thi kỉ sự và sách Tình sử : 
       Chàng Thôi Hộ (còn có tên gọi khác là Thôi Hạo) dù thông minh sáng láng và hay thơ nhưng lại là một sĩ tử không may chốn trường thi. Ông đi thi đến lần thứ hai rồi mà vẫn bị hỏng. Một hôm Thôi Hộ ra phía nam đô thành du xuân, thấy một dinh cơ có vườn đào nở hoa rất đẹp liền gõ cửa vào xin nước uống. Gọi cửa rất lâu, có người con gái hỏi vọng từ khe cửa. Chàng trả lời rằng:
  行,酒 饮。
 tầm xuân độc hành, tửu khát cầu ẩm
 (tìm xuân một mình, khát xin nước uống)”.
      Người con gái mở cửa, mang nước đến cho chàng, nàng đứng yên thật lâu bên cành đào nghiêng bóng, mắt lặng nhìn đăm đăm. Lúc Thôi Hộ từ biệt, nàng tiễn chàng ra đến cổng, tình chàng vẫn còn lưu luyến. Mãi về sau, chàng không quay trở lại. Đến tiết thanh minh năm sau, chàng tìm về nơi xưa cũ, cửa ngõ vẫn như ngày nào, nhưng cổng ngoài đã khóa, không biết chủ nhân ngày xưa giờ ở nơi đâu. Chàng liền đề bài thơ ở cánh cửa bên trái
     Mấy hôm sau Thôi Hộ đi qua gần lối ấy, nhân đó ghé lại thì nghe trong nhà có tiếng khóc. Thôi Hộ gõ cửa vào thăm, một ông cụ chạy ra hỏi ngay rằng:
- Cậu có phải là Thôi Hộ không?
Thôi sinh nhận, ông cụ khóc nói rằng:
- Cậu giết chết con lão rồi!
Thôi Hộ kinh ngạc, ông cụ lại nói rằng:
- Con lão là gái có học, tuổi mới cập kê, chưa gả cho ai. Tự năm ngoái đến giờ con lão như ngây như dại; hôm vừa rồi lão đưa đi chơi, về đến cửa thấy có chữ, nó đọc rồi sinh bệnh liền, không ăn không uống mà chết. Lão chỉ có một mụn con, chưa gả chồng là có ý kén rể hiền, ai ngờ nay con lão chết, không phải cậu giết nó thì ai?
     Ông cụ nắm lấy Thôi sinh mà khóc. Thôi Hộ xúc động xin vào viếng, thấy dung nhan nàng vẫn còn tươi tắn, chàng rơi nước mắt khấn vái và kêu lên:
- Nàng ơi, tôi trở lại đây!
Cô gái mở bừng đôi mắt, sống lại.Ông cụ mừng quá, gả ngay cho Thôi sinh. 
     Lần này nhờ có thần tình yêu chắp cánh, chàng đã đỗ tiến sĩ, chấm dứt những năm tháng lận đận chốn trường thi. Đó là kì thi tiến sĩ đời nhà Đường vào năm 796. Nhờ thi đỗ tiên sĩ mà Thôi Hộ làm quan đến chức Tiết độ sứ... 
      Đại thi hào Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều đã mượn hai câu trong bài thơ Đề Đô thành Nam trang của Thôi Hộ để miêu tả tâm trạng chàng Kim Trọng khi trở lại vườn thúy thì thấy nàng Kiều đã bước chân vào con đường của mười lăm năm lưu lạc:Trước sau nào thấy bóng người/Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Sưu tầm) 

http://image.diaoconline.vn/Tintuc/2012/02/29_DOOL_TT_12029_HT3_13.jpg